Thương Sinh Quái Khách

Chương 9: Mộc đô phiến



Đột nhiên A Ba tất tả chạy vào trong khi trời còn chưa tối hẳn.

“Nay huynh về sớm thế?”

“Có việc, có việc!” Gã “cơm cháy” vội vã thốt. “Cậu Đồng biết chữ, có thể giúp tôi việc này được không?”

“Tôi đang nghe đây.”

“Tôi cần giúp chủ hội buôn chuyển một lượng hàng sang đất Phong Hoá mà tôi không biết đọc danh sách địa chỉ và tên khách hàng!”

Vương Vi gật đầu:

“Vậy tôi đi với huynh một chuyến!”

Lại hỏi thêm:

“Số lượng hàng khoảng bao nhiêu?”

“Dưới năm mươi mục,” A Ba mừng lắm vì đợt việc này được trả công gấp ba. “Cảm ơn cậu Đồng!”

“Huynh cho tôi chỗ ở, giúp huynh là việc nên làm, không phải ơn nghĩa!” Vương Vi cười đáp.

Cực Đồng rất ít cười, dù chỉ hơi cười thôi cũng trông đáng yêu hơn cái vẻ lạnh lùng như tượng đồng thường ngày nhiều, nhìn lại ngôi nhà giông giống chòi canh dưa của mình, A Ba ái ngại gãi đầu. Hai người cứ thế đi ngang qua thành Đồng Nham hướng cửa nam và thành cũng chỉ có hai cửa, từ cửa nam men theo cảng biển sẽ chạm ngõ giao lộ rẽ nhánh dẫn tới đồn Mê, là chỗ hội buôn Tương Đối dựng chi hội. Đồn Mê được đánh dấu bằng mấy cây nêu treo nón lá cũ mềm, từ xa trông chúng chẳng khác mấy đám cọc bù nhìn đuổi chim ngoài ruộng lúa, lối vào đồn đắp cao thành bờ đê rộng độ một sải tay, đủ cho xe kéo đơn đi qua.

Dọc đường, A Ba giới thiệu đôi chút về chỗ làm mới: chủ hội buôn Tương Đối là một cô gái trẻ tên Hương Xuân Lâu, còn quản lí chi hội đồn Mê là một cô gái khác lớn tuổi hơn tên Đài Các, nhân viên của đồn gom hết tầm khoảng ba mươi người phân thành mười đội, chủ yếu giao hàng khu vực quận Phong Hoá và vài vùng phụ cận. A Ba nằm trong nhóm vận chuyển có đội trưởng là Mắn, ngoài gã còn một tên khác đã làm ở đồn hơn một năm.

“Mắn không học nghề nấu nướng nữa ư?” Vương Vi hỏi han, vì dạo này cũng ít gặp anh chàng thật thà chất phác đó.

“Ài, kể ra cũng tội cậu ấy! Vốn dĩ Mắn theo đầu bếp Kiêm học nghề tới lúc đủ sức làm phụ bếp thì sẽ được thầy hoàn một nửa học phí đã nộp ban đầu, nhưng ông ta kiếm cớ đuổi Mắn trước hạn để khỏi phải trả lại phần tiền đó. Thành thử hiện giờ cậu ấy đang bôn ba tìm việc sống tạm, nhưng tay nghề nấu nướng khá ổn rồi, Mắn cũng định dành dụm ít tiền đi nơi khác kiếm nhà hàng nào đó xin việc. May mắn là tính cậu ấy được lòng bà chủ nhì nên giờ làm trưởng đội vận chuyển mỗi tháng lương khoảng năm đồng, tôi thì mới vào nên lương hai đồng thôi, thấy mọi người cũng tốt nên tôi tính làm lâu dài luôn, công việc cũng đơn giản chỉ cần có sức khoẻ là được, thi thoảng bà chủ nhì còn bao cơm trưa nữa!”

Bà chủ nhì tức cô Đài Các, bà chủ nhất tất nhiên là cô Hương Xuân Lâu, đây là cách gọi khi chỗ làm có nhiều hơn một chủ, lương hai đồng chỉ đủ mua gạo ăn trong tháng, thế nên vẫn thấy A Ba đi nhặt mót phế liệu kiếm thêm ngoài giờ việc chính. Hoành quốc có hai đơn vị hành chính là quận và đô, đô thì chỉ có một chính là kinh đô Cát Bối, còn quận thì có tám mươi mốt quận, quận Phong Hoá giáp kế quận Tuỳ Nhiêu của thành Đồng Nham, Vương Vi cũng chưa từng qua đó nhưng biết rằng bất kì nơi nào trên đất nước Ngang đều chẳng vắng mặt dân nghề lượm.

Chi nhánh hội buôn Tương Đối trông kiên cố hơn nhà dựng tạm một chút: vách tường xây gạch một nửa trát bùn một nửa, cọc nhà là cọc nứa, mái lợp bằng ngói có lèn đá, chỗ kho gạo còn che thêm lớp phên tre cật làm mái phụ, cửa cánh bằng gỗ dổi nhẹ, bền mặc dù gỗ keo phổ biến hơn, có thể mục đích đặng dễ đóng mở song phết sơn chống mọt khá dày khiến trọng lượng cửa tăng lên không ít. Đài Các là một cô gái mặt trái xoan với cằm tròn như đầu quả trứng, mắt nhỏ lúng liếng, lúm đồng điếu cùng mái tóc đen thẳng hơi mỏng ôm sát mặt, trông cô dễ gần mà nghe đâu tuổi mới ngoài hai mươi thôi, ăn nói nhanh nhẹn hoạt bát khiến người đối diện cảm thấy thoải mái. A Ba giới thiệu Cực Đồng với cổ, bảo là bạn đến giúp vận kho, Cực Đồng không thêm câu nào mà chỉ gật đầu chào, Đài Các đoán ra y thuộc hạng nghiêm túc ít bỡn cợt nên mau mắn đưa danh sách giao hàng kèm bản đồ địa giới cho và dặn dò hai người nhớ cẩn thận rồi cũng đi làm việc khác.

Đương lúc họ Vương cùng A Ba kiểm kê hàng hoá chuẩn bị lên đường thì một chiếc xe chở cỏ khô từ đê rẽ vào, đỗ xịch trước mặt bọn họ, từ đống cỏ khô ló ra hai bàn tay nhỏ nhắn, chui ra một con người nhỏ nhắn nhưng mắt to như mắt cá bống, A Ba khẽ huých tay với Vương Vi, ý bảo bà chủ nhất tới rồi. Bất ngờ là chưa tới kì gộp sổ sách mà bà chủ nhất lại xuất hiện, chắc có mối mang quan trọng gì đây, nhiều người đang có mặt ngấm ngầm phỏng đoán vậy. Hương Xuân Lâu mặc đồ từa tựa kiểu trang phục dành cho nam giới, quấn túm ống tay áo và quần, trên cổ đeo một tấm thẻ gỗ khắc tên hội buôn, hông mang đoản gươm[1] có vỏ đen bóng, xỏ giày đen cổ cao bằng nhung mịn, xem ra xuất thân không thấp, tác phong đi đứng gọn gàng dứt khoát, mỗi cái hơi lùn.

“Bà chủ nhất mới đến!”

A Ba vội chào khi thấy cô bé đi tới, Vương Vi thì nghi ngờ bà chủ nhỏ con này còn ít tuổi hơn mình dù năm nay y cũng mới qua mười bốn. Hương Xuân Lâu phỏng chẳng nhớ ra tên đen đúa cao gầy vừa chào hỏi mình là ai nhưng chợt dừng bước, ngó Vương Vi đăm đăm. Vương Vi bất động không phản ứng thì cô bé lên tiếng:

“Ngươi chắc từ nơi khác đến?” Còn bổ sung thêm. “Không phải người nước Ngang?”

Vương Vi gật đầu thừa nhận, dù sao nom bản thân cũng khác với mọi người xung quanh, hầu như dân trong thành Đồng Nham gặp phải y đều cho rằng y là người phương bắc. Còn A Ba sợ tình huống trở nên khó xử, vội đỡ lời:

“Phải đấy bà chủ, cậu ấy vốn từ châu Nam Quế đến đây học nghề.”

“Ngươi học nghề gì?” Hương Xuân Lâu dường khó chấp nhận mình bị người ta tảng lờ, thẳng thắn đối mặt với họ Vương, muốn nghe y hồi đáp.

“À cậu ấy học nghề lượm đồng…”

“Nghề đó có gì phải học?” Hương Xuân Lâu vẫn chĩa ánh nhìn như gà lườm thóc với người đối diện, mặc dù đỉnh đầu cô cao tới vai y; cặp môi nhỏ đỏ mỏng như cánh anh đào mím dưới dẩu trên, làm Vương Vi phải nghĩ: Hoá ra cơ mặt của con người ta có thể biểu cảm phong phú vậy.

Rồi trước ánh mắt ngạc nhiên của bà chủ nhỏ và đám đông gần bên, họ Vương giơ tay xoa đầu cô, rốt cùng chịu mở miệng đáp:

“Nghề nào cũng cần phải học, đã biết cũng cần học thêm, như vậy mới tiến bộ được.”

Hương Xuân Lâu kinh ngạc hỏi lại:

“Ngươi bao nhiêu tuổi vậy?”

“Mười bốn.”

“Cách ngươi nói chuyện còn già hơn cả cha ta!”

Nghe cô bé nói, ai nấy bật cười dù không um thành tiếng to, song Vương Vi chỉ thốt vài chữ thế thôi, không kéo lê câu chuyện, cũng chẳng buông lời trêu chọc. Hương Xuân Lâu hẳn cảm thấy y hơi khác lạ so với mấy người ở đây nên mới hỏi cho ra nhẽ, chẳng hiếu kì gì nhiều cũng chẳng tính toán cái xoa đầu của y, trực tiếp bỏ qua họ Vương và A Ba, đi vào trong kho gạo. Vương Vi với A Ba thấy trời đã nhập nhoạng tối càng không dềnh dàng nữa, buộc xong hàng hoá trên xe kéo, A Ba làm nài ngựa đằng trước còn Vương Vi ngồi cạnh đống hàng, cả hai lên đường ngay sau đó.

Đường đất không quá xấu song cũng chẳng phẳng phiu cho lắm, hố voi hố trâu thì chưa thấy nhưng ổ gà ổ cút thì chốc chốc bánh xe lại tưng qua, làm hàng hoá nảy xốc dù đã được ràng chặt. Theo danh sách khách hàng thì đa phần loanh quanh nội quận Phong Hoá, xa nhất là một nhà tận góc núi Chân Dương sát địa phận quận Cam Sành, tên núi mới được triều đình đổi lại còn cách gọi cũ là núi Chân Dê, vì theo truyền thuyết có con dê thần từng leo lên núi ấy rồi để lại dấu móng mà nay trở thành một cái hồ lớn giữa lòng núi. A Ba nghe Vương Vi chỉ đường, lần lượt chạy theo lộ tuyến được bà chủ nhì vạch sẵn nên di chuyển khá thuận lợi, tuy giao hàng hơi trễ song ít khách nào phàn nàn, gần hết canh một đầu đêm thì họ cũng sắp xong việc, còn mỗi nhà xa nhất ở núi Chân Dương nữa là hoàn thành.

Để tới núi Chân Dương, A Ba quay lại đường lớn không ngờ đúng lúc đụng phải bà chủ nhất cùng bà chủ nhì cùng trưởng nhóm của mình là Mắn cũng đang đánh ngựa chạy giao gạo chuyến chót. Thật hiếm khi nào chi nhánh bận rộn đến vậy, thường qua canh hai là mọi ngõ nhà đều tắt đèn đóng cửa cả mà giờ này vẫn còn năm mạng lang thang ngoài đường chưa vãn việc. Hỏi ra thì hơi khác thường, cũng là gia đình ở góc núi Chân Dương nọ yêu cầu giao thêm gạo vào sáng nay nhưng tới tờ mờ tối thì tin tức mới đến tai bà chủ nhất, cộng thêm đơn do họ đặt hôm kia nữa, cộng dồn thành một chuyến cho khỏi trễ hẹn đi tới đi lui. Tổng số gạo của chuyến cuối này nếu ăn trong một tháng thì gia đình phải cỡ mười lăm, mười sáu người, chẳng lẽ nhà đấy thật ra là phú hào ở đâu chán cảnh phố thị nên về chốn sơn cước mua đất cất nhà sống cho an tĩnh?

Hai xe chạy song song đến đoạn đường núi thì xe bà chủ chạy trước, A Ba đuổi theo sau, may mà lộ đất không quá lòng vòng, khung cảnh vắng vẻ quen thuộc của miền ngoại ô xa lắm mới thấy cọc địa giới chôn ven bờ. Khi cả bọn đến nơi chẳng thấy nhà cao cửa rộng gì cả mà chỉ thấy một túp lều tranh lụp xụp có hai ông bà cụ đang loay hoay đóng rào, đậy chum nước. Bà chủ nhất nhảy xuống xe, kêu vừa đủ to:

“Giao gạo đây!”

Trong nhà, bà giật mình mách ông:

“Hình như có ai giao gạo kìa, mình ra xem thử coi phải không?”

Thế là cụ ông tất tả xỏ dép ngược đi ra, mở cổng.

“Chào bác, bọn cháu chở gạo từ chi hội buôn Tương Đối tới đây!” Bà chủ nhất nhanh nhảu tự giới thiệu. “Tổng cộng năm mươi sáu cân, giao cho nhà A Hường dưới núi Chân Dương, quận Phong Hoá, có phải là nhà của bác không ạ?”

“À đúng rồi, A Hường là con trai bác,” ông cụ gật đầu. “Mà sao nó kêu nhiều thế? Một tháng cả nhà chỉ ăn độ mười hai cân thôi, chừng nào hết gạo mới mua tiếp!”

“Vậy lệnh lang có nhà không ạ? Hay bác là người nhận gạo, kí hoá đơn và chi trả?”

“Đợi bác kêu nó ra đã nhé!”

Bà chủ nhất gật đầu, ông cụ liền khép hờ cổng rồi quay vào nhà kêu mấy tiếng “A Hường, A Hường”, không lâu sau thì có thiếu niên đáp lại, giọng rất lạnh:

“Nghe rồi lão già, im đi! Điếc cả tai!”

Nhưng “A Hường” không xuất hiện từ trong nhà mà từ trên trời, tay áo thùng thình, cầm một chiếc quạt hình như lá đu đủ màu cam, nhẹ nhàng hạ xuống nền sân, trước mắt đám người Vương Vi, tóc gã màu đen dợn sóng tung bay rồi rủ yên trên vai gã. Hai ông bà lão thấy vậy vội vàng kéo nhau chạy ra ngoài, ông thì nói:

“Con đừng doạ khách sợ!”

Bà thì bảo:

“Sao lại bay cao thế, coi chừng ngã!”

A Hường lọt tai mấy câu trên xong, tựa hồ bị chọc giận, trước năm cặp mắt khó tin đang từ ngoài hàng rào nhìn vào, gã ném quạt vòng ra sau đầu khiến nó xoay tròn bay vun vút, cứa qua ngực hai ông bà lão đầy mặt lo lắng đó, không kịp nghe kêu tiếng nào đã ngã ngửa ra đất, sắc đỏ lan rộng trên nền sân, ngay sau lưng gã. Hương Xuân Lâu xô mạnh cổng rào khiến nó lệch đi, hét lên:

“Ngươi làm gì vậy? Đồ bất hiếu!”

“Bất hiếu?” A Hường không chấp nhận lời lên án kia, phe phẩy quạt đáp lời. “Hai tên già này có phải cha mẹ ta đâu?”

“Vậy chứ họ là ai? Tại sao biết cậu?” A Ba bức xúc quên cả sợ, còn vì thái độ bình thản sau khi hại chết người của đối phương thật khiến người ta đắng miệng.

“Nè cây củi!” A Hường nhắm A Ba đặt vấn đề. “Làm cha mẹ thì phải cho con cái những gì tốt nhất đúng không? Phải phấn đấu hy sinh vì con cái chứ, đúng không?”

Chưa ai phản ứng, gã tiếp:

“Nhưng hai tên già này suốt đời chịu sống ở đây, còn muốn ta cứ vậy sống cùng bọn chúng, ta muốn đi ra ngoài thì chúng khóc lóc đe doạ, hết lời bảo với ta rằng ngoài kia lắm thứ nguy hiểm, sao bằng ở lại với chúng rồi bình yên chết già! Nếu ngươi là ta, ngươi có cam chịu mãi như thế không?”

Ngờ đâu, người ít nói như Vương Vi lúc này lại lên tiếng:

“Hai ông bà lão này có phải người sinh ra ngươi không?”

A Hường trả lời một câu làm ai nấy thắt lòng:

“Phải!”

“Nhưng ngươi không nghĩ họ là cha mẹ của ngươi?”

“Không hề!” A Hường tức giận rít lên, nắm chặt cây quạt trong tay. “Ta may mắn gặp sư phụ dạy cho ta phép thuật giúp ta biết bay, nếu không chẳng biết ngày nào ta mới thoát khỏi hai tên già này! Ta có trốn lên núi kiểu gì chúng cũng mò ra ta cả, chẳng lần nào chúng bỏ cuộc! Hôm nay giết chúng rồi thì ta sẽ được thầy công nhận là đủ tư cách làm học trò…”

Bỗng gã nói chậm lại, giọng nhẹ nhàng như bấc:

“Số gạo đó các ngươi cứ bốc xuống đi, ta sẽ trả đủ tiền mà!”

Bà chủ nhất sớm linh cảm không lành, bảo bốn người đằng sau:

“Hắn điên rồi, chuẩn bị chạy!”

Đài Các hãy chưa hết sợ cứ cứng đơ người, Mắn luống cuống cầm dây cương chẳng biết ra làm sao cả, còn A Ba hết nhìn đây lại nhìn kia: dưới trăng trông A Hường kì dị khôn tả, sắc mặt của gã biến đổi liên tục, vừa độc ác vừa khoái trá, mùi tanh bốc lên từ dưới đất khiến người ta lợm họng. Vương Vi thấp giọng hỏi bà chủ nhất:

“Hắn có bảo bối, cô có gì đánh lại được không?”

“Ta, ta cũng có,” Hương Xuân Lâu khó nhọc đáp. “Nhưng không thể chủ động dùng…”

“Cái đó như thế nào?”

“Giống bình nước, mà ngươi không biết đâu!”

Vương Vi thôi không bàn nữa, quay sang hỏi tên đã điên nhưng chưa động thủ kia, chắc gã vẫn đang chủ quan mình trên cơ đối phương:

“Sư phụ của ngươi là người của môn phái nào?”

“Thiên Mộc Đô,” A Hường hơi bình tĩnh lại, cảm thấy hình như tên này cũng có biết gì đó. “Ngươi từng nghe qua không?”

“Từng!” Hương Xuân Lâu nghiến răng nói. “Thiên Mộc Đô là một phái thuộc ma đạo, luyện công pháp thuộc tố phong nên đệ tử hay sử dụng quạt làm vũ khí, đại bản doanh ở châu Chúc Thuỷ, cùng với Ngũ Diệu Môn tranh đoạt địa bàn mấy trăm năm nay!”

“Ha, thật?” A Hường đổi giận thành mừng, nhìn cái quạt hình dáng kì lạ trong tay, tựa hồ phát rồ cười ha hả. “Quả nhiên sư phụ không lừa ta! Người không lừa ta!”

Tức thì, Hương Xuân Lâu quay ngoắt sang ra lệnh cho Mắn:

“Ngươi dẫn mọi người chạy trước, ta sẽ ở lại cầm chân tên này rồi trốn sau!”

“Sao bà chủ nhất không cùng đi?” Gấp lắm rồi mà A Ba cũng chẳng quên vai vế.

“Hắn không để tất cả chúng ta đi đâu, hắn là ma đạo!” Hương Xuân Lâu nhăn mày.

“Ma đạo đều sẽ hại người sao?” Mắn vẫn còn ngơ ngác, song tay đã siết cương ngựa tỏ ra sẵn sàng.

“Tóm lại mau chạy ra khỏi núi này rồi đi báo quận môn: có đệ tử ma đạo trong núi Chân Dương, xin điều quân trấn áp!” Hương Xuân Lâu rút cái gì đó từ dưới cổ áo, nắm chặt không để ai thấy rõ gốc tích rồi ấn vào tay Đài Các. “Lấy vật này làm tin, phải trao tận tay quan quận Tuỳ Nhiêu là Vũ Hoà Quân!”

Xong cô cấp bách hỏi họ Vương:

“Ngươi biết đánh nhau không?”

“Biết,” Vương Vi toan bảo: Phải có vũ khí nữa mới đủ! Thì A Hường đã xông một mạch ra ngoài, như con nghé lồng lên vọt thành đường thẳng, khiến cổng rào xiêu vẹo cùng hàng rào gỗ bật tung, đất đá bị càn xới văng vọt tựa suối phun từ mạch ngầm dưới đất. Nhưng đà của gã bị Vương Vi cản lại bằng thứ sức lực phi thường, giờ đây đôi bên giáp mặt, đầu mũi cả hai cách nhau một gang tay, mắt trừng mắt, ba chữ nhỏ trên chiếc quạt kia cũng hiện rõ dưới ánh sáng trắng của mảnh trăng trung tuần[2]: mộc đô phiến[3], hèn chi nó lại chả giống lá đu đủ!

“Mau chạy!” Hương Xuân Lâu hét lên.

Mắn cùng A Ba vội xốc bà chủ nhì lên xe kéo, bà chủ nhất quyết liệt lắc đầu trước ánh mắt lưng tròng của Đài Các, Mắn hiểu rằng chẳng thể chần chừ thêm nữa, ngó quét cái rãnh dài mấy trượng của hai người đang ôm nhau giằng co kia, thét ngựa vọt đi. Còn lại Hương Xuân Lâu, cô bé rút gươm khỏi vỏ, di bộ lấy thế, nhắm chỗ chí mạng đằng sau ót A Hường, đâm tới dứt khoát!

Mộc đô phiến rời tay chủ lao lên cao…

A Hường vọt bay, Vương Vi lăn vòng trên đất còn Hương Xuân Lâu đâm trượt.

***
LỀ
A 阿 (âm Hán) Hường 𧹰 (âm Nôm)
Đài Các 臺 閣 (âm Hán)
Hương Xuân 香 春 (âm Hán) Lâu 𥹰 (âm Nôm)
Kiêm 兼 (âm Hán)
Vũ Hoà Quân 羽 和 軍 (âm Hán)
*
Chân Dương sơn 真 陽 山 (âm Hán)
Chúc Thuỷ đại châu 燭 水 大 洲 (âm Hán)
Đồn 屯 (âm Hán) Mê 迷 (âm Nôm)
Núi Chân Dê 𡶀 蹎 羝 (âm Nôm)
Quận 郡 (âm Hán) Cam Sành 柑 𡊳 (âm Nôm)
Quận Phong Hoá 郡 風 化 (âm Hán)
Quận Tuỳ Nhiêu 郡 隨 橈 (âm Hán)
Thiên Mộc Đô 天 木 都 (âm Hán)

****
CHÚ THÍCH
[1] Loại vũ khí một lưỡi, thân mảnh gọn như kiếm mà hơi cong nhẹ, gọi là gươm 鎌 (theo truyện).
[2] Một tháng có ba tuần 旬, mười ngày đầu tháng là thượng tuần 上旬, mười ngày kế tiếp là trung tuần 中旬, mười ngày rốt sau là hạ tuần 下旬.
[3] Cây đu đủ có tên chữ Nôm là 𣘃𣛭𣛭, chữ 𣛭 có hai âm “đu” và “đủ”, khi phân tích cấu trúc thì chữ 𣛭 gồm chữ mộc 木 và chữ đô 都 ghép lại; phiến 扇 là chữ Hán chỉ cái quạt.