Thương Sinh Quái Khách

Chương 8:



Rất lâu trước đây, có một đứa trẻ để tóc ngắn mặc áo nhung đỏ tựa quả sơn tra chín giòn, lội ngược cơn bão tuyết trong đêm đông, lên núi tìm dị nhân mình cao gần một trượng[1], đầy lòng nhiệt thành tuyên bố với gã rằng:

“Ái Nhân! Từ giờ đệ sẽ bảo vệ huynh, bởi vì huynh có một trái tim lương thiện!”

Dị nhân chỉ nhìn không đáp, đứa trẻ chẳng nề hà thân hình quái dị của gã, nhào tới ôm một cái… Vương Vi thức giấc lúc nửa đêm giữa cơn mơ hồi ức ấy, phần vì gió thổi phên tường kêu “cạch cạch”, phần vì câu hứa cũng là thệ ngôn đã dẫn dắt y trên con đường này, luôn thức tỉnh y mọi lúc: bảo vệ Ái Nhân, bảo vệ những trái tim lương thiện.

Họ Vương tự nghĩ bản thân vốn không có phần lương thiện nào, thâm tâm y thích tranh đấu, một lòng truy cầu sức mạnh. Ngay từ nhỏ trước khi ba mẹ qua đời, y đã sớm coi cái chết chỉ là hư vô, vì duyên cớ gì? Bởi Vương Vi cũng không xem sống là điều quan trọng, thậm chí chẳng cảm nhận dòng chảy của thời gian dù mọi người xung quanh già dần rồi chết lần đi. Bởi Vương Vi tin rằng cái gọi là “cuộc đời” chỉ là lớp vỏ bọc còn “chính mình” thì còn mãi, chẳng phải sống cũng chẳng phải chết. Điều đó rất khó định nghĩa, dùng từ ngữ để diễn tả cũng không được chính xác nên họ Vương chưa từng bày tỏ quan điểm của mình với bất kì ai, đây đồng thời là lí do khiến y muốn “vấn đạo”: khi ba mẹ chưa sinh ra ta, ta từ đâu đến?

Y từng hỏi dị nhân rằng:

“Huynh nghĩ thế nào gọi là mạnh?”

Dưới bóng nắng chiều, Ái Nhân trầm ngâm khá lâu, trước khi nói gì đó huynh ấy đều suy nghĩ cẩn thận như vậy. Cuối cùng gã đáp:

“Mạnh là biết sợ, và không biết sợ.”

Ái Nhân luôn diễn đạt rất chậm, tám chữ trên thốt ra với tốc độ dài gấp ba lần người thường nhưng Vương Vi vẫn thích nghe, và cũng chỉ có y mới hiểu được lời của dị nhân. Họ Vương dành một sự kính trọng lớn đối với hai đấng sinh thành, nhân vì Ái Nhân từng chậm rãi nói một câu dài với y:

“Cha và mẹ ban cho đệ sinh mệnh, đây là đại ân vĩnh viễn không được quên.”

Có nhiều ý nghĩa phái sinh theo sau câu nói ấy, họ Vương tự gẫm dần dần mà hiểu rộng ra hơn, vì thế y chăm chỉ luyện Thanh Minh Tâm Quyết nhằm giúp bản thân không ngừng mạnh mẽ nhưng chẳng rời khỏi ba mẹ khi họ vẫn còn sống. Lần này y quyết định tạm biệt quê hương phần vì bổn phận làm con đã xong, phần vì con nợ bị kẻ khác bắt đi - y cần tìm thằng trộm nấm đó đòi lại đủ mười một xu, bởi con người họ Vương rất rạch ròi: biếu thì không tính nhưng mượn là phải trả!

Cạch! Cạch!

Gió buổi khuya nay khá lớn, chắc trời sắp nổi bão… Khoảng đầu năm sau Tết hoặc gần cuối năm thường hay xuất hiện bão lớn, sóng dậy cao hơn chục xích là chuyện thường, tàu ngoài cảng Nghệ rất giỏi bươn chải giữa những con sóng dồn dập nhờ kiểu thân phình đặc trưng, hệ thống chống ứ nước cấp thời bên trong tàu và bản lĩnh của các thuyền trưởng.

Ngoài lề chút thì tên thông dụng của cảng Nghệ là cảng Xệ, nguyên vì tàu ở đây toàn bằng sắt, sợ nhất đám hà biển tụ tập bám dưới lườn tàu, thế nên việc câu tàu lên cao rồi đốt lửa đuổi hà luôn là hoạt động thường xuyên diễn ra. Vào dịp đông đúc có thể lên tới hàng chục chiếc tàu cần vệ sinh như vậy trong một ngày, do đó dàn cần trục của cảng phải nâng hạ những khối sắt nặng nề giữa mặt nước và bến tàu với tần suất cao, tổng khối lượng tính bằng quân[2] chứ chẳng ít. Lâu dần cần trục cũng “lão hoá” rồi xệ lần đi, giống người già bị khòm lưng vậy, lại còn “xệ” theo hàng nữa chứ, mỗi cần trục có rất nhiều chi tiết thành thử muốn thay mới cả loạt không phải vấn đề nhỏ. Đến giờ đội cần trục của cảng Nghệ hầu hết đều cũ, chỉ thấy một “tân binh” vừa được thêm vào gần đây song sức nâng của nó nhỏ hơn phần còn lại, cũng chẳng đỡ đần đám già nhiều cho lắm!

Nhà của A Ba hoàn toàn trống cửa, bốn tấm phên chống lên chống xuống ở bốn bên vừa làm tường vừa làm cửa, rất tiện, nóc nhà tuy lợp lá nhưng được gã gia cố định kì và nêm đá chống tốc mái nên khá yên tâm, có cái lều xí khá xa nhà lại sát biển nên mấy đêm biển động sẽ hơi khó xử một chút. Hễ mà giữa khuya phải đi xả là sẽ thấy dàn cần trục yên ắng trên cảng vắng, mấy hôm trời quang trăng sáng, trông chúng như những kì thủ đang chống cằm trầm mặc nhìn xuống mặt biển là ván cờ không ngừng xao động…

Trong công việc mạnh anh anh làm, mạnh tôi tôi làm chứ không đề huề rủ rê là tác phong thường thấy của dân xứ này, cũng đồng dạng “đèn nhà ai người nấy rạng” tại vùng Chài nhưng lạnh lùng hơn: nếu chẳng phải quen thân thì họ ứ thèm đi chung luôn. Thành ra cái nhóm mà Vương Vi tình cờ bắt gặp lúc chèo thuyền đến đây, thực chất đã làm hội hè với nhau tầm tám, mười năm chứ chả ít!

Mắn rất thật thà đúng như ấn tượng ban đầu, gã hay mót đồ ăn thừa trong bếp nhà hàng về chia cho người quen đa phần là dân nghèo khổ. Quả thật bạn bè trong ba năm qua của họ Vương toàn là nghệ nhân[3] hoàn cảnh. A Lục với A Túa từng chỉ cho Vương Vi thấy cái nhà giàu nhất trong thành song nếu bì với phú hộ Do thì mới bằng được một nửa; nhà giàu đó có ba cửa tiệm bán tạp hoá lần lượt tại con đường lớn nhất, góc ngã tư của đường lớn nhất và ngay cổng bắc thành Đồng Nham: đường, gạo, muối, tương… thứ gì cũng có bán.

Ông chủ nhà giàu ấy họ Do, là “do” trong “do dự”[4] chứ không phải trong “tự do”[5], tên huý của ông ta là Đại Phúc nhưng tên gọi “chính thức” hơn là Bụng Bự. Do Bụng Bự đương nhiên có bụng bự, thường ngồi ít đi, hay chễm chệ trên cái ghế tre bập bênh trước cửa tiệm tạp hoá ở góc ngã tư đường lớn, quản lí tiệm là thứ nữ của họ Do tên Đan Kiềm. Thiên kim Đan Kiềm rành nẻo bán buôn hơn cả chị gái, mỗi tội tính ưa cá cược, nghe đâu phụ thân cô đang đau đầu tìm rể quý, cốt kiếm đứa nghiêm túc thật thà chứ nó hiền hiền bỡn bỡn hùa theo vợ đi mê trò đỏ đen thì vạ lắm!

Khác với vùng Chài vật dụng tre vừa rẻ vừa phổ biến, tre ở xứ Đồng khá hiếm hoi thành thử mắc hơn hẳn, đồ mây cũng thế, hầu hết toàn là hàng nhập khẩu chứ thợ làm mây đan, tre đan tót tận kinh thành mới có. Kinh thành tức thủ phủ quốc gia, khác với vùng Chài gọi là hoàng thành thì nơi đây kêu hoàng đô, cũng không bảo là kinh thành mà gọi kinh đô. Kinh đô nước Ngang có tên riêng là Gòn, tên chữ là Cát Bối, dựng lên đến nay khoảng bốn trăm năm trên đất Rượu, nền cũ của cố quốc Tuý Cầm. Nổi tiếng nhất kinh đô có ba: mĩ nữ, hương khoanh và đồ đồng. Ca dao bản quốc tóm lược thế này:

Đồ đồng là nhất xứ Ngang,
Thứ hai nhang quấn,
Thứ ba người giòn[6],
Nhẽ vì hoa đất[7] là hơn
Vậy nay xếp ngược:
Người, nhang, mới (tới) đồng.

Khi kể cho Vương Vi nghe về sự tích nước Ngang, chợt chú Thác hỏi:

“Nước Ngỗng có tích cổ gì không?”

Vương Vi đáp rằng có, là truyện “Thái tử cưỡi ngỗng” cũng tương đồng với truyện “Tiếng đàn trong mây” của Hoành quốc, đều là tuồng tích xưa mà mỗi dân tộc dùng để giải thích và ghi nhớ về nguồn cội đất nước mình thông qua hình thức truyền miệng. Sau đó thể theo yêu cầu của chú Thác, họ Vương thuật lại “Thái tử cưỡi ngỗng” phiên bản do ba kể cho nghe thuở nhỏ:

Khi mà con nước phía bắc còn hiệp với con nước phía nam thành một hàng thẳng, bắc qua đất Tề Khê hay còn gọi là phá Trũng, thì đoàn quân của thái tử Định cùng lê dân đã băng phá suốt nửa ngày sau. Trời nhập nhoạng tối, cả đoàn người nghỉ lại phía bên kia con nước, tại cuối phá Trũng, cùng nhau hạ trại. Còn thái tử cầm thương đi riêng một mình tìm đường dựa vào vị trí các vì sao, sau đó ngài gặp một cô gái gần bờ biển, cô gái ấy đã chỉ cho thái tử biết một vùng đất xa về phía nam có thể an cư lạc nghiệp. Vì thế vào sáng hôm mai, ngài đã dẫn quân và dân chúng của mình đi theo hướng mà cô gái bày cho, quả nhiên gặp được chốn đồng rộng non cao lại giáp biển, có thể lập quốc. Thái tử đặt tên cho nước mới là nước Đại Nga, cùng dân xây nhà, khai khẩn ruộng đất, đào kênh ngòi, dựng cung điện trên sườn núi phía tây, ngài cũng trở thành vua nước ấy. Nước Đại Nga cứ thế phát triển, dân chúng đông nhiều, nhưng vua lại chưa lập hậu, ngôi vị thừa kế bị trống đã lâu, do đó quần thần cùng nhân dân đều xin đức vua tuyển chọn một người con gái xứng đáng làm vợ của ngài. Vua bèn cho tổ chức hội thi kén thợ dệt giỏi để tìm người con gái đó, cuối cùng quán quân của kì thi là một cô gái tên Dạ Sa, vua nhận ra nàng chính là người đã chỉ đường cho mình lúc trước bèn ưng thuận lập nàng làm hậu. Hoàng hậu Dạ Sa hạ sinh cho vua bảy người con, hai trai năm gái, gia đình rất hoà thuận hạnh phúc. Sau khi các con đều lớn có thể kế thừa nghiệp nước, vua bèn truyền ngôi cho hoàng tử cả rồi cùng hoàng hậu cưỡi bầy ngỗng lông vàng bay lên trời, từ đó không còn ai biết tung tích của hai người nữa. Hoàng tử cả lên ngôi, vì tưởng nhớ cha mẹ nên đổi tên nước thành nước Ngỗng, tên gọi ấy vẫn còn giữ đến ngày nay.

Vương Vi giải thích thêm:

“Nửa ngày sau tức là buổi chiều, nửa ngày đầu là buổi sáng, thời ông bà tôi mọi người hay dùng cách gọi này nhưng hiện giờ lứa chúng tôi rất ít người biết. Ngoài ra còn một dị bản khác nói rằng hội thi kén vợ của vua là thi đan thuyền nan chứ không phải thi dệt vải, vì dân xứ tôi biết dệt vải nhưng không thành làng nghề, riêng đóng thuyền thì làng nào cũng có hộ theo nên tình tiết này hợp lí hơn, nhưng bản tôi vừa kể lại phổ biến hơn. Cũng có thể lúc xưa nước Ngỗng từng tồn tại một số làng dệt mà nay đã thất truyền!”

Nhìn sang chú Thác, họ Vương lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông ta nhập tâm tới mức mắt đỏ hoe, song le câu chuyện trên đâu có tình tiết thương tâm nào? Tuy nhiên Ái Nhân từng bảo với Vương Vi rằng vị thái tử trong tích cổ kia vẫn còn sống, và y không họ Định như hậu thế lầm tưởng mà Định Phong chỉ là tên hiệu của y. Chẳng lẽ chú Thác biết gì đó về nguồn gốc truyện cổ này?

Trước đây lão đã tiết lộ một lần là tổ tiên của lão không ở nước Ngang mặc dù lão được sinh ra tại nước Ngang, do vậy xưa giờ chú Thác luôn mặc nhiên coi bản thân là khách cầu thực nơi xứ người, độc lai độc vãng chẳng thân cận bất kì ai. Thế nên A Túa với mấy người khác trong nhóm không khỏi lạ lùng khi thấy lão chấp nhận dạy nghề cho họ Vương, lại còn hay đèo theo y mỗi lần đi bán phế liệu. Người xưa có câu “thà cho vàng, không ai dẫn đàng đi buôn”, hẳn trong lòng chú Thác phải chất chứa ẩn tình gì đó nhưng ba năm đã qua lão vẫn cư xử như thường, chẳng gửi gắm cũng chẳng khơi gợi việc chi ngoài lề.

Bên kia, chú Thác giơ tay áo lau nước mắt, hỏi lại:

“Ngoài quê cậu ra còn nơi nào khác lân cận có tích tương tự ‘Thái tử cưỡi ngỗng’ nữa không?”

Thấy Vương Vi lắc đầu thì lão gật gật ra chừng hiểu ý, bỗng dưng chuyển đề tài:

“Tầm giữa tháng sau ta sẽ đi xa một chuyến, kẽm trong nước càng lúc càng khan hiếm quá, có lẽ phải tìm thêm ở nơi khác!”

Vương Vi còn chưa đáp thì chú Thác tiếp luôn:

“Cậu có dự tính gì sắp tới không?”

Họ Vương đáp:

“Hiện tại thì tôi vẫn muốn tiếp tục theo nghề, dù việc triều đình tập trung thu gom đồng đã hoãn bớt nhưng nếu tương lai không khả quan, có thể tôi sẽ thử tìm vài cơ hội học nghề mới hoặc chuyển chỗ làm ăn.”

“Ừm, cứ tuỳ tình hình mà ứng phó, không nhất thiết phải theo chết một đường,” chú Thác phóng mắt nhìn ra biển, dưới mái chòi lá khô tạm dựng trên bãi cát, cái bóng đen kịt của nó thật tương phản với nắng trưa giòn rụm và đôi ngươi hắt sáng của lão. “Bữa nay thâu được cũng ít, lát nữa chúng ta đến chỗ già Ngũ cân thử, sẵn kiểm lại thuế bản[8] mấy tháng qua xem, trước khi đi cũng phải thu xếp vài việc!”

Bấy giờ đang quá nửa tháng hai, sang giữa tháng ba còn chưa tới ba mươi ngày, ngoài trả phòng ở khách sạn Hương Lâu ra chắc chú Thác cũng chẳng có nhiều thứ cần bàn giao, mình lão ăn ở đồ đạc tiết kiệm lắm, Vương Vi lần hồi học được cách xoay xở làm mọi việc với ít dụng cụ nhất có thể từ lão. Đến đây thôi, hai người họ hợp tác đã ba năm, luôn biết dừng lời lúc nào, điểm tương đồng giúp cả hai ăn ý khi làm chung nằm ở hai việc: ít nói, nói vừa đủ.

Già Ngũ là mối lái của chú Thác, cá nhân Vương Vi đánh giá ông già thu mua phế liệu đấy thói tham và ưa chắt mót, lại còn hay tính già hoá non, có lẽ do đã thân thuộc nhau lâu cộng thêm hồi mới vào nghề thì già Ngũ cũng giúp đỡ chú Thác vài lần nên lão nhớ tình nghĩa thuở đầu mà luôn bán hàng tốt cho. Thêm việc nữa là già Ngũ rất khoái cái chảo gia bảo của Vương Vi, lần nào thấy mặt y đều gạ gẫm muốn mua nó với giá “nhỉnh hơn thị trường”, đã giá thị trường thấp nên dân nghề chẳng thèm bán rồi, còn đòi thu mua với giá cao hơn thị trường trong khi giá trôi nổi luôn gấp đôi gấp ba giá thị trường!

Sau bận “dứt keo” khỏi già Ngũ, Vương Vi trở về nhà của A Ba nhưng chủ nhà tới tối mới thấy mặt, A Ba làm đủ thứ nghề, dạo gần đây đang khuân vác thuê cho một hội bán gạo du thương tên Tương Đối ngoài thành Đồng Nham, do đó hôm nào cũng về muộn. Thông lệ, Vương Vi kéo lò nấu cháo hoa cho cả hai, ăn cùng đường than và rễ củ bình tinh đập giập rồi nướng, hoặc hôm nào trúng mánh bán được nhiều hàng thì chút tôm khô rắc vào coi như sơn hào hải vị, họ Vương đã không ăn thịt cá từ rất lâu nên luôn nhường cho A Ba, cũng bởi cảm ân người ta cho y chỗ ở suốt ba năm qua. Gạo nấu cháo hoa không thể xay thành bột để đổ bánh xèo được, Vương Vi từng thử một lần nhưng bột xay ra màu nâu nhạt khi khuấy nước lại lợn cợn, ngâm lâu mấy cũng chẳng chịu nở, nghệ nơi đây cũng mắc, cuối cùng đành dùng mẻ bột đó nấu cháo sệt ăn cho đỡ phí.

Bánh xèo là món tủ của mẹ Vương, phần nhân bánh rất dễ làm vì cứ tận dụng nguyên liệu sẵn có, hồi ở quê Vương Vi thường ăn bánh xèo nhân măng tươi kiếm được trong bụi tre sau nhà hoặc ba Vương chịu khó lên rừng nửa buổi là thu hái đầy gùi, rau rừng trên núi làm món rau ghém cặp kè với bánh xèo mỏng rìa nhai giòn giã. Thứ bánh này vừa xúc khỏi chảo ăn liền mới ngon, chén nước mắm pha từ nước đường thắng nêm chút ớt the the mà ba chan vào, bàn tay khô gầy của mẹ thoăn thoắt múc bột, gắp măng, lật bánh; họ vẫn cười vui vẻ dù mẻ bột đổ bánh xèo hôm nay có là cân gạo cuối cùng dưới đáy khạp…. Vừa khuấy niêu cháo, Vương Vi vừa suy tính từng nước đi sắp tới của bản thân, những lời chú Thác thốt vào buổi trưa này ít nhiều là dấu hiệu cho một cuộc chia tay lớn, và từ đầu ý định của họ Vương không phải xuất ngoại kiếm tiền. Trước cái đêm bước ngoặt tại Lạn Nguyệt lâu, Vương Vi vốn định làm lái buôn gạo trên phố xá tại trấn Đầu thuộc huyện Ô Dầu nước Ngỗng, ngặt nỗi con nợ của y đã bị kẻ lạ bắt đi, nếu không tìm ra tung tích của hắn thì đòi mười một xu kiểu gì?

Thuở nhỏ Vương Vi nghe Ái Nhân kể rằng bên ngoài châu Bạch Quế còn có rất nhiều châu khác, mà lúc họ Tân bị hốt mất lại ngay cửa biển phía tây, dường đối phương đã dùng phép độn thuật để bỏ chạy tuy nhiên thực lực yếu vậy chắc hẳn không điều khiển được, khả năng là trốn ra ngoài phạm vi nước Ngỗng rồi. Tuy chưa nắm chắc phương hướng, song dựa vào những thông tin từ Ái Nhân thì châu Bạch Quế gần như là châu lớn nhất có người ở tại cực nam thế giới, như vậy ba tên đó ắt phải lên bắc hoặc sang đông bởi ngoài biển tây toàn là nơi các đại tộc khác quần cư, rất ít con người dám bén mảng. Đến khi vượt biển tới được nơi này và dần hoà nhập với cuộc sống dân bản xứ, học hỏi thêm nhiều điều thì Vương Vi mới rõ cái tên Bạch Quế đã không còn được dùng khoảng năm trăm năm trước rồi, danh xưng của đại châu hiện tại mà nước Ngỗng toạ lạc là châu Nam Quế, nước Ngang thì nằm ở châu Mộc Tê chếch về phía tây bắc châu Nam Quế. Hai đại châu trên cách nhau một eo biển lớn gọi là Cam Đạm vì nước qua biển này rất đục và chảy chậm.

Nếu vượt biên giới đông bắc Hoành quốc thì chạm địa phận nước Hoăng, nước ấy nổi tiếng đông đảo đủ loài côn trùng mà dân bản xứ gọi là “mỏ vàng sống”: dùng làm lương thực, làm thuốc, nuôi như thú cưng hoặc huấn luyện truyền tin, và lắm công dụng khó tin khác. Tuy vậy, người bên ngoài vào chưa rõ cách phòng chống rất dễ bị những giống trùng ấy hại nên chúng chẳng dễ thương chút nào!

Còn giả xông thẳng lên bắc ắt đụng nước Hoang, nước Hoang và nước Hoăng có đường biên giới chung và cùng giáp với Hoành quốc. Nước Hoang cũng lắm “mỏ” nhưng là mỏ kim loại, theo chú Thác thì sản lượng khoáng của nước Hoang nếu vét cạn đủ để xây mười vạn toà thành tương tự kinh đô Cát Bối của Hoành quốc. Song ngoài mỏ khoáng ra thì đất đai nước Hoang còn khô khốc hơn cả nước Ngang, đến nỗi món bánh đặc sản đồng thời làm lương khô ăn chính của dân xứ đấy là bánh ngói tấm nén từ bột khoai nghiền cứng gấp đôi ngói thật!

Bằng tính vượt biển lần nữa theo hướng tây bắc thì sẽ sang châu Mộc Lan, một đại châu tập trung rất nhiều tu nguyên giả. Dân phong nơi đó khác hoàn toàn mấy châu kia, hoạ chăng mỗi châu Đại Bạch bên đối diện đồng thời là đại châu cực đông của đông ngũ bộ châu mới đồng dạng.

Tạm thời chưa quyết định, Vương Vi hơi thiên về ý tưởng đi thuyền sang châu Mộc Lan, phần vì dễ thăm dò tin tức trong giới tu nguyên để tìm thằng kia, phần vì y cần mật tịch luyện pháp bảo. Thanh Minh Tâm Quyết là công pháp chủ về vật công, nhưng Vương Vi biết bản thân không thể chỉ luyện một đường vật công như Ái Nhân được. Y cần song luyện cả pháp công nữa và khiến chúng bổ trợ cho nhau, như vậy một cái pháp bảo hình chiếc xe có thể bay được trong tưởng tượng của y sẽ thành hiện thực…

Bờ cây gió nhẹ khói mờ
Tiếng mưa vỗ nhịp hững hờ cho sen
Bạn bè tay chén tay chen
Trọn ngày cộng ẩm một phen miễn sầu
Riêng ta thèm tựa khách câu
Áo tơi chẳng lạnh bóng câu cuối ngày.[9]

***
LỀ
Dạ 𦁹 (âm Nôm) Sa 紗 (âm Hán)
Do 猶 (âm Hán) Bụng Bự 䏾 被 (âm Nôm)
Do Đại Phúc 猶 大 腹 (âm Hán)
Do Đan Kiềm 猶 丹 黔 (âm Hán)
Định Phong 定 風 (âm Hán)
Ngũ 五 (âm Hán)
*
Bạch Quế đại châu 白 桂 大 洲 (âm Hán)
Kinh đô Cát Bối 京 都 吉 貝 (âm Hán)
Kinh đô 京 都 (âm Hán) Gòn 棍 (âm Nôm)
Cảng Nghệ 港 藝 (âm Hán)
Cảng 港 (âm Hán) Xệ 豉 (âm Nôm)
Cố quốc Tuý Cầm 古 國 醉 禽 (âm Hán)
Đại 杕 (âm Nôm) Bạch đại châu 白 大 洲 (âm Hán)
Đại Nga 大 鵝 (âm Hán)
Đất Rượu 𡐙 𨢇 (âm Nôm)
Eo biển 夭 𣷭 (âm Nôm) Cam Đạm 泔 澹 (âm Hán)
Hoang quốc 荒 國 (âm Hán)
Hoăng quốc 薨 國 (âm Hán)
Hội 會 (âm Hán) buôn Tương Đối 𧶭 醬 𩼸 (âm Nôm)
Huyện 縣 (âm Hán) Ô Dầu 摀 油 (âm Nôm)
Phá Trũng 破 冡 (âm Nôm)
Đất 𡐙 (âm Nôm) Tề Khê 臍 溪 (âm Hán)
Trấn Đầu 鎮 頭 (âm Hán)

****
CHÚ THÍCH
[1] Một điền xích 田尺 là 47 cm, mười xích là một trượng 丈 tức 4,7 mét.
[2] Một thạch 石 bằng một trăm hai mươi cân 斤 tức 60 kg, hai ngàn năm trăm thạch là một quân 均 tức 150.000 kg = 150 tấn.
[3] Nghề nghiệp, tài năng là nghệ 藝, người là nhân 人. Nghệ nhân 藝人 tức người làm nghề hoặc có nghề nghiệp nào đó.
[4] Một giống khỉ giỏi leo trèo, hễ thấy người liền leo lên cây chờ người ta đi khỏi mới xuống là con do 猶, con voi lớn gọi là dự 豫. Do dự 猶豫 hàm ý sự chần chừ, không quả quyết, bắt nguồn từ tính đa nghi của hai giống thú trên (theo quan niệm của người xưa).
[5] Mình hoặc của mình là tự 自, tuỳ theo hay thuận theo là do 由. Tự do 自由 nghĩa là làm theo ý của mình, không chịu sự hạn chế hoặc thúc ép từ bên ngoài.
[6] Giỏi, đẹp là giòn (phương ngữ).
[7] Bắt nguồn từ câu “người ta là hoa đất”, ý chỉ con người là nơi phát xuất và hội tụ mọi tinh hoa, giống như đoá hoa của trời đất (hình ảnh ẩn dụ).
[8] Khoản tiền mà nhà nước trưng thu của dân gọi là thuế 稅, sổ sách gọi là bản 版. Thuế bản 稅版 là sổ ghi chép các lần nộp thuế của một cá nhân hoặc tổ chức, loại tài liệu này có nhiều tên khác nhau tuỳ địa phương.
[9] Tức cảnh 即景 - Nguyễn Văn Giao 阮文交 (trích)
Ngạn thụ phi vi phong sắc đạm 岸樹霏微風色淡
Chử liên diêu đãng vũ thanh hàn 渚蓮搖蕩雨聲寒
Thân bằng huề tửu chung triêu quá 親朋攜酒終朝過
Lại sĩ truyền bôi tận nhật hoan 吏士傳杯盡日歡
Vi tiện ngũ tam thoa lạp khách 爲羨五三簑笠客
Tà dương thùy điếu vị tri hàn. 斜陽垂釣未知寒。