Thương Sinh Quái Khách

Chương 7: Tung tích Đại Báo Kính



Sơn cốc của Bàng Hạc lãn nhân tên là Gốc nhưng đa phần được gọi là Bổn, hình như Bổn mới là tên đúng vì do sư tổ Đạo Thành chân nhân đặt, vị sư thúc này của Tân Cố cũng nổi tiếng lắm: nổi tiếng gàn dở trên dưới sơn môn ngay cả nhân phù cũng biết. Số là hắn thấy đám người hầu bằng giấy hoá ra đó hay hay bèn thử trò chuyện với chúng, có lẽ do đã ở trong núi lâu nên chúng tích tụ linh tính, ghi nhớ được nhiều việc mà chúng tiếp xúc; từ khi vỡ lẽ điều này thì họ Tân chẳng ngại ngày ngày “phỏng vấn” đám phù đến nỗi có cái chuyên dọn nhà bếp đổ quạu với hắn, vừa nhác thấy bóng Tân Cố là giơ chổi lên liền…

Trong cốc của sư thúc rất ít sử dụng nhân phù mà toàn dùng người thật, chính là hai tên sư đệ của họ Tân nhưng sư phụ bắt hắn tiếp tục gọi là huynh để tưởng ân tri ngộ ban đầu, tuy Tân Cố luôn cảm thấy không thoả đáng nhưng vẫn phải nghe theo. Ngạc Nhiên làm nhiệm vụ quét tước sân trước và lau phòng còn Ngạc Thật thì phụ trách bếp núc cùng khu sân sau, gồm luôn nhà xí.

Bữa nay chẳng thấy Ngạc anh Ngạc em đâu cả, chắc đang ráo riết chuẩn bị cho chuyến đi thám bảo sắp tới rồi, nghĩ tới việc này Tân Cố liền buồn bực trong lòng, phải tầm vài năm nữa thì hắn mới đủ tiêu chuẩn tham gia thám bảo, lúc ấy chắc hai tên kia đã là nguyên sĩ rồi, chẳng dễ tìm dịp bắt nạt nữa. Tuy thuở ban sơ, Ngạc Nhiên với Ngạc Thật từng khinh thường doạ dẫm Tân Cố song vẫn dẫn hắn về sư môn cho hắn cơ hội bái sư, họ Tân cũng không phải hạng mau quên song cái bận hai anh em bắt hắn chạy việc vặt suốt dọc đường từ chỗ hang nướng thịt gấu đến tận cửa Thôi Vũ Môn cũng phải tính vào chứ! Rồi còn vụ cho hắn uống nước biển sau khi giành mất pháp bảo nữa… Hừm, bố Đỗ từng dạy môn ra môn mà khoai ra khoai[1], Tân Cố bụng bảo dạ nhất định tìm dịp báo thù hai tên sư đệ một phen, thế mới công bằng!

Mà sư thúc cũng không ở đây nốt, chẳng lẽ lại đến Tịnh Ngôn đường nghiên cứu cách tiến cảnh rồi à? Họ Tân lia mắt mấy vòng từ trước ra sau, thấy hai con người giấy dị hợm của sư thúc đang đứng thẫn thờ, nhân phù của sư phụ đa phần khi biến ra đều mang dáng dấp tiểu đồng dù mặt chúng trang điểm hơi í ẹ cũng còn coi được, sao mà đám nhân phù chỗ sư thúc trông cứ y hệt mấy vị mĩ nữ trong cuốn “Bách nị nương nương Hoạ tập”[2] của thằng Ngủ ấy: “nàng” gầy tựa củ bình tinh mắt lệch mắt chinh, “nàng” mập giống khạp gạo đánh má hồng trên mắt còn tô son môi dưới đảo vị môi trên. Nhẽ nào xu hướng chọn bạn lữ của sư thúc hắn cũng kiểu kiểu vầy? Thật là mặn hơn nước mắm!

“Nè hai vị nguyên hữu, tại hạ là Tân Cố, đệ tử cốc Dã Vị của Hạc Cầm đạo nhân,” họ Tân đánh tiếng, hi vọng chúng cũng thông minh như đám người giấy ở cốc nhà. “Ta cần hai lạng đảm sâm, một lọ tiệt hàn tán, hai nhánh dương xỉ kiếm và ít bột trị kim sang[3], hai vị có thể lấy giúp được không?”

“Đam, đa, đa, đam… đam, đảm, đả đả, đảm… sơ ơ sơ, sâm, sâm, sâm!” Mĩ nữ gầy hồi đáp, mà không phải với đối tượng vừa hỏi nó, là “đồng nghiệp” bên cạnh nó kia.

Chính là mĩ nữ mập, “nàng” cũng trả lời:

“Tị, tiệt, tiệt, hàn, hàn, hàn, tan, tan, tan, tán, tán, tán…”

Gầy đáp:

“Dư ư ơ ương, ơ ương, ỉ, ỉ, ỉ kiếm!”

Tân Cố muốn nín thở.

“Bộ bột, bột, kim, kim, kim, sang, sang, sang!”

Mĩ nữ mập rặn xong câu trên, quay sang hỏi hắn:

“Cò còn còn, gì, gì, gì, nữa, nữa, nữa, không, không, không?”

Họ Tân chột dạ nghĩ: Sao tên này biết mình tính làm “cò”? Tuy nhiên hắn vững tâm lại ngay vì sư phụ có nói nhân phù không biết tư duy, chúng chỉ làm theo lệnh của chủ mà thôi, thế quái nào lão sư thúc lại biến ra một cặp cà lăm còn xấu hoắc như vậy!

“Không còn!” Tân Cố trả lời dứt khoát, mặc dù bột trị kim sang là hắn xin cho bản thân chứ sư phụ không kêu.

Hai “nàng” đồng thanh nhưng không đồng đều nói:

“Đơ, đơ, đợi, đợi… mộ, mộ một, một, chút!

“Đợ đợi, đợi, một, một, một, chút, chút, chút!”

Sau đó như hai tờ giấy bay vèo vào trong thất bên trái, chắc là nhà kho, nơi này họ Tân không dám mó máy vì hắn biết sự tích có lần sư thúc nổi giận đánh nhau với cả chưởng môn dù ông thua kém Bách Đào chân nhân hẳn một đại cảnh giới, tóm lại dây dưa với mấy người liều là thiếu thông minh. Nhắc tới “liều” bỗng dưng Tân Cố nhớ tới tên đồng hương mạnh như quỷ kia, giờ chắc đã ẵm pháp bảo mừng rơn rồi, nhưng cũng có thể giống Ngạc Nhiên phán đoán là y chẳng biết xài song nhỡ chó ngáp phải ruồi lại gặp được ai đó tu nguyên như hắn thì sao? Đáng ghét thật, với tư chất của thằng đó thì chẳng cần đi cửa sau bái sư, cứ ngẩng mặt cửa trước là có cả đống lão già nguyên sĩ mời chào y đầu nhập môn hạ, cuộc đời đúng thật bất công!

Trải qua đời sống tu nguyên một thời gian, từng vài lần chứng kiến sân chiêu tài được tổ chức, đã thấy qua ải nhập môn khắc nghiệt thế nào, Tân Cố thừa hiểu nếu chẳng nhờ chính mình theo đuôi hai tên sư đệ kia từ đầu thì dù trăm lần vào sân chiêu tài cũng vô vọng mà thôi. Không phải chỉ có một phần trăm cơ hội mà là một phần trăm cơ hội cũng không có! Những kẻ may mắn lọt qua ải nhập môn này đều sở hữu tư chất hơn hẳn họ Tân nhưng thua xa Vương Vi hàng trăm lần, thử hỏi Tân Cố đặt hi vọng vào chỗ nào chứ? Kẻ sinh ra đã thừa còn kẻ trầy trật vẫn thiếu, cố gắng cho bằng một tên sẵn ở trên bục trong khi bản thân luôn đứng dưới đất thì ích gì?

Hai nhân phù của sư thúc đã quay trở lại với những thứ hắn yêu cầu, Tân Cố lắc đầu xua đi những ý nghĩ tăm tối, tự an ủi rằng cái chỗ hẻo lánh nhà quê như vùng Chài lấy đâu ra nguyên sĩ lang thang tới. Coi như cho họ Vương chết già ở cái xó mãi nghèo hèn ấy đi, bận tâm làm gì!

Chẳng phải bản thân hắn bây giờ một bước lên mây đã rất tốt rồi sao?

“Sao, sao, sao, vậy, vậy, vậy?” Mĩ nữ mập thấy đối phương lắc đầu tưởng chừng chán nản bèn quan tâm hỏi thăm, tên nó là Tam Điểm.

“Đừ, đừ, đừ đừng… bờ ờ buồn… cư cứ, noi nói, nói, nói!” Mĩ nữ gầy tên là Nhị Điểm, là “chị” của “nàng” kia.

“Không có gì!” họ Tân mỉm cười tự giễu, ngờ đâu bữa nay lại được nhân phù an ủi, xem ra tuy cả hai đều xấu nhưng tính cách không tệ lắm, nội tâm của hắn nảy sinh chút cảm tình với Nhị Điểm và Tam Điểm. Tên hai “nàng” thật ra viết đầy đủ trên ngực ấy, cũng giống đám nhân phù của Hạc Cầm đạo nhân có tên toàn là các loại trái cây miệt vườn.

Tân Cố chào từ biệt hai mĩ nữ của sư thúc rồi cầm đồ ra về, song chưa vội trở lại cốc Dã Vị ngay mà vòng xuống đình nghỉ mát gần chân núi Thôi Vũ, chỗ đó vừa là chỗ hóng mát vừa là chỗ hóng chuyện. Bởi có không ít lái buôn vận chuyển hàng hoá cho sơn môn ghé vào ngồi xả hơi giây lát, nhiều tin tức do bọn họ tung ra ngay cả mấy trưởng lão trong môn cũng phải lóng tai nắm bắt.

Họ Tân điều tra được vào các ngày mùng tám, mười bốn, hai tám của tháng thường là thời điểm bọn lái buôn kết tập kiện hàng giao trùng nhau, tức mấy ngày đó khả năng sẽ đông người tụ hội ở đình nghỉ mát nhất, họ nhóm họp tất sẽ bàn bạc kể lể đủ thứ, là cơ hội thu được cả rổ thông tin chỉ trong vài canh[4] ngồi không uống trà. Đương nhiên Tân Cố đã có chuẩn bị ít “mồi” đưa chuyện, gồm bột trị kim sang vừa lạm xin được, kèm ít quả mót từ cây kim đồng nam hơn trăm tuổi trong vườn thuốc của sư phụ, thêm mấy tấm thẻ dùng đánh dấu sách bằng gỗ đàn cũ kĩ bị xếp xó; toàn bộ đều chưa hề xin phép chi cả bởi hắn nghĩ bản thân là đệ tử thì lấy chút đồ thừa của sư phụ cũng đã có sao, cứ để đấy mãi không ai xài lại chả phí.

Ngoài pháp bảo Ngọc Kính thì Hạc Cầm đạo nhân còn tặng cho đệ tử họ Tân một cái túi ba gang, túi ba gang này là dạng cấp thấp của loại “tiểu trung đình” nhưng khỏi cần nguyên năng để sử dụng, bù lại túi ba gang có sức chứa ít hơn và cũng có túi sáu gang hay chín gang nữa. Nhớ lại lúc Ngạc Nhiên và Ngạc Thật trông thấy tên “đến sau” lại rủng rỉnh từng ấy đồ thì căng đỏ mắt, Tân Cố lấy làm khoái chí lắm, tuy vẫn phải kêu hai gã “sư đệ” bằng huynh song cũng có chỗ hả dạ. Một “gang” của túi ba gang nếu tính theo giạ lúa thì bằng khoảng ba mươi giạ, hình dung sơ sơ tổng dung tích túi cũng tầm gấp đôi kho trữ thóc của lão Do giàu nhất vùng Chài, song bề ngoài của túi ba gang đo ngang đo rộng chỉ độ gang tay hoặc khoảng ba tấc mà thôi, nếu có gì để chê chắc là phần thêu trang trí hơi giống kiểu túi thơm của mấy cô chiêu ưa õng ẹo.

Hiệu quả từ bột trị kim sang của nguyên sĩ ăn đứt mấy loại cao chữa thương thông thường nên quý giá lắm, nếu không phải Thôi Vũ Môn có nhiều vị trưởng lão thạo y dược thì Tân Cố chẳng xin không nổi đâu. Quả của cây cổ thụ kim đồng nam được chăm tưới bằng nước suối nguồn tất sẽ có vị ngon ngọt khác với đồng loại mọc dại của nó, tuy không mấy tác dụng dược lí gì song là của hiếm ít gặp với dân xuôi. Còn mấy tấm thẻ đánh dấu sách thường khắc chữ này chữ nọ mà vốn liếng học hành của họ Tân chỉ vừa ngám ba cái lá mít nên chẳng đọc nổi hết, dẫu vậy trong chúng cũng tồn đọng chút ít nguyên năng nhờ việc nguyên sĩ hay dùng phép câu vật tác động lên thẻ gỗ nhằm lật giở sách chứ ít khi dùng tay, giới lái buôn luôn xem đấy là bùa cầu may nên hễ có cơ hội đổi được liền đổi ngay, cộng thêm đây còn là đồ đạc của một vị trưởng lão thuộc Thôi Vũ Môn thì càng nâng giá trị lên không ít. Đem mớ này ra mua vài câu chuyện râm ran chả lo bị từ chối, khéo chừng đám lái buôn còn xúc hết ruột ra mà kể ấy chứ!

Tân Cố đắc ý vỗ vỗ chiếc túi hình vuông rút dây miệng đeo dưới thắt lưng, nghênh ngang bước xuống từng bậc sơn đạo, sắp ra vẻ đệ tử quan môn hạ sơn làm việc theo chức phận. Nào biết trên một cái đình nghỉ mát khác tít đằng sâu trong dãy Thôi Vũ, có hai ông lão bỏ dở ván cờ đang đánh, dõi mắt xem hắn sắp làm trò khôn vặt.

Bàng Hạc lãn nhân vuốt râu thở dài, than với sư huynh của mình rằng:

“Số của huynh đệ chúng ta cứ làm sao ấy! Chẳng nổi một đứa đệ tử ra hồn, sau này mãn thọ đi gặp ân sư biết phải ăn nói thế nào để thầy không buồn đây?”

Hạc Cầm đạo nhân nét mặt bình thản, mặc kệ đứa học trò lợi dụng lúc sư phụ vắng mặt mà sàng xê buôn dưa lê, tự rót một chén trà sao[5] rồi hạ tiếp quân cờ trong lượt của mình:

“Mỗi người một phúc phận, việc sư đồ cũng thế! Chẳng phải ngày xưa chính ân sư đã nói trước với chúng ta như vậy à? Đệ thì có hai đệ tử, đứa đầu nhát gan đứa sau chậm chạp, tuy nhiên chỉ cần tụi nó không chết nhảm trước khi lên nguyên sĩ thì sau này cũng có thành tựu…”

“Hầy!” Hễ nhắc tới hai tên đệ tử củ mài là Bàng Hạc liền không vui, đặt chén trà đang uống xuống, vỗ đùi tặc lưỡi. “Biết là thế! Cái thằng chết nhát còn ráng nghe lời hì hụi công phu cũng sắp đột phá rồi, riêng thằng chết đần tối ngày la cà mãi cứ ‘khí cao, khí cao’! Cao hoài cho chết đứng hay gì mà chẳng chịu ‘trảm’! Sắp thám bảo tới nơi mà nó còn lê lết chưa ‘tuyệt hàn’, đợi khi vào đó bị người ta giẫm thành ‘tuyệt mệnh’ luôn thì chả bõ công đệ đây dạy dỗ anh em nhà nó gần hai tá mùa thu!”

Hạc Cầm tủm tỉm cười:

“Chưa đầy hai tá mùa thu mà sắp thăng đại cảnh giới đầu tiên, sợ là củ mài thật chứ chẳng phải củ mì giả[6]!”

Bàng Hạc tức khí không đáp, sư huynh lão lại tiếp:

“Như lời dự ngôn của ân sư, đáng lẽ ta không muốn thâu nhận đệ tử nào đâu, số sư đồ gì thảm quá chừng! Kể ra hôm đó hai đứa nó đưa thằng nhóc về cũng là duyên phận, mà ta cũng xem qua rồi, nó ấy…”

Hạc Cầm nghiêng mắt ngó tên học trò nơi xa tít đang say sưa hít chuyện thị phi, giọng hơi trầm xuống nhưng lại nhẹ đi:

“May mắn mắc nợ một kẻ không thể chọc, bám nhờ cái mệnh bất tử của y mà sau này tránh được cả mớ tai hoạ, đúng là… chẳng biết luận thế nào cho phải!”

Nghe qua lời này, Bàng Hạc có chút quan tâm, hỏi lại:

“Thật sự tên chủ nợ đó lợi hại vậy sao?”

“Ở đây,” Hạc Cầm hóm hỉnh gõ lên bàn cờ, “tính của Tân Cố là thích chơi pháo thuận, nếu đối phương bị dụ ăn chốt đầu thì nó liền nhảy cóc được một bước chiếm tiên cơ, nhược bằng đối phương tỉnh táo thì nó cần xoay xở thí quân nhằm lấy lại lợi thế song tính nó sợ bỏ nhiều ăn ít nên toàn chọn đổi quân, hoặc giả gặp đối thủ cao trí hơn thì thí quân chỉ là nước đi tự sát, tóm lại trầy trật một hồi dù phải ôm thiệt và rơi thế bí nó sẽ thí hết để giữ ‘tướng’ là cái mạng nhỏ của mình! Giá mà biết buông đúng lúc thì hay song nó quá tham để hiểu điều đó!”

Bàng Hạc cau nhẹ hai đầu mày trông như cái thang, chắc đang cảm thấy bó tay nhưng vẫn hỏi tiếp:

“Thế còn tên kia thì thế nào?”

“À tên kia thì ngược lại,” Hạc Cầm lắc đầu thở ra, “y thích chơi pháo nghịch và luôn sẵn sàng thí quân, nhìn bề ngoài giống như rất điên cuồng nhưng bề trong lại vô cùng tỉ mỉ! Cách y thí quân kì thực là ngầm đổi quân, tựa hồ chẳng cần chiếm tiên cơ song luôn tiến công không ngừng nghỉ, trong mắt y mọi ván cờ đều không có hoà mà chỉ có thắng hay thua thôi!”

Bàng Hạc nhăn tít:

“Tân Cố gặp phải kẻ như vậy rõ ràng chết chắc rồi! Huynh còn bảo gì mà ăn bám được cái mệnh bất tử của người ta?”

“Là vậy đó!” Hạc Cầm uống trà, khà một tiếng. “Tuy tên kia tính sát phạt cao dễ lâm vào thù hận, nhưng y có hai điều giữ y không lún sâu: một là nghĩa khí, hai là dũng khí.”

“Đệ từng nghe câu ‘quân tử có dũng mà không có nghĩa thì là phản loạn, tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì đi trộm cướp’, ý huynh là như vậy chăng?”

Hạc Cầm không đáp, Bàng Hạc lấp lời vào:

“Cứ cho là y biết nhân nghĩa đi, giữa thế đạo mạnh được yếu thua này, chẳng biết nhân nghĩa của y là liễu hay là tùng?”

“Là núi!” Hạc Cầm trả lời, cũng là câu cuối cùng chấm dứt vấn đề hai người vừa bàn luận.

Bấy giờ, đứa học trò được sư phụ nhận định là “thích chơi pháo thuận” kia đã tan thời ngóng tin tức, ôm bụng hả hê về lại sơn cốc của thầy. Mà do hắn uống trà hơi nhiều nên xót ruột rồi, hẳn sắp vào bếp lục đồ ăn đây và sẽ gặp cây chổi của “bạn” nhân phù đang canh dọn bếp…

Hai vị trưởng lão tiếp tục đánh nốt cuộc cờ, đây là ván thua thứ ba trăm năm mươi mốt của Bàng Hạc lãn nhân trước ván thắng thứ ba trăm năm mươi bốn của Hạc Cầm đạo nhân, ba ván đầu tiên giữa hai người là Hạc Cầm dạy sư đệ nhập môn đánh cờ tất nhiên toàn thắng. Kì thật Bàng Hạc không thích chơi cờ chi cả mà chỉ thích đọc sách, sư huynh lão thì ngược lại, hồi đầu cùng bái sư đã thấy tính cách của cả hai nghịch nhau rồi, được cái Hạc Cầm là người cẩu thả còn sư đệ lão vô cùng kĩ tính, thành thử người cằn nhằn người cười trừ cứ vậy hơn hai trăm năm. Đạo Thành chân nhân gần mãn thọ mới thu đôi đệ tử rồi sớm thệ thế[7], sinh thời cũng chăn thả chứ chẳng quản ngặt, nhắc tới thuở bọn họ còn là tân sinh thì lớp tiền bối như Bách Đào chưởng môn hay Tướng Vân trưởng lão còn phải cám cảnh: ồn như cái chợ bán heo.

“Chuyện Đại Báo Kính huynh đã nghe chưa?”

Bàng Hạc cầm chổi trà cụ quét quét cái nắp của chiếc ấm đất thứ sáu mươi tám mà hai sư huynh đệ mua chung, sáu mươi bảy ấm kia vẫn còn nguyên cả nhé: mỗi người tự trông nom ba mươi bốn chiếc, uống trà là nhã hứng song hễ thành thú chơi thì kiểu gì cũng mài thủng túi người ta. Hạc Cầm cẩn thận xếp lại bộ chén tống, chén quân đâu ra đó, dường ưu tư đáp:

“Đã nghe rồi, nhưng chắc chẳng ảnh hưởng đến lần thám bảo sắp tới đâu, phía Tướng Vân sư thúc cũng chưa hồi âm gì!”

“Thứ đó có ma khí!” Bàng Hạc phiền muộn nói.

“Điểm quan trọng nằm ở chỗ nó là mảnh vỡ pháp bảo của tiền nhân,” Hạc Cầm cầm khăn bông ngoáy lấy ngoáy để lòng chén trà, như thể nó bị dính sơn vậy. “Phe chính đạo đang hô hào muốn cùng ma đạo tranh đoạt, lấy cớ sợ đồ tốt rơi vào tay kẻ tà sẽ thành hoạ lớn, còn rủ rê mấy môn phái trung lập như chúng ta góp sức trừ gian diệt bạo, chả hiểu nổi! Đã người ta tuyên bố trung lập rồi thì việc nhà ai nấy lo, cứ nhăm nhe lôi lôi kéo kéo kiểu đứng ngã ba vui lòng rẽ phải ấy, đến bực cả mình!”

“Vân Kiệt Tông cũng rục rịch rồi à?”

“Chứ sao nữa! Bọn họ vốn thích ăn cỗ mà, cỗ càng to càng ráng chen chân cho được!”

“Tại thừa người đấy! Như năm đó mất mười hai tay đại thành mà chẳng nhằm nhò gì, huống hồ bọn họ ém hàng hơn cả gian thương đầu cơ tích trữ, bình thường đã đông như cây, đụng chuyện bung ra còn hơn cả lá!”

“Nói vậy chứ tổn thất mười hai Lăng phong giả dự bị cũng không ít đâu, bất quá khi ấy nội bộ của họ đang bận ‘đè sóng’ nên mới tỏ ra dĩ hoà vi quý thế thôi!”

“Cơ mà đệ nghe đồn tên tông chủ mới sau khi nhậm chức thì bế quan thường xuyên, chỉ mấy dịp quan trọng mới chịu ra mặt chủ trì, giờ chả ai biết y đang ở tầng lớp nào trong giới tu nguyên mà các long đầu khác trong môn đều im ắng hẳn, chẳng hoạt bát như trước nữa!”

“Thế là rõ mười mươi rồi!”

Bàng Hạc ngưng tay, trố nhìn sư huynh.

Hạc Cầm nhấn từng chữ:

“Trượt vỏ dưa, thấy vỏ dừa cũng sợ.”

“Huynh chắc chứ?” Bàng Hạc hoài nghi.

“Phải trái có quan trọng đâu, bọn họ vẫn là bọn họ, chúng ta cứ là chúng ta! Cho dù chưởng môn sư thúc có thay đổi lập trường thì Tướng Vân sư thúc chưa chắc đã thuận theo, tạm thời cứ chờ hồi âm từ phía tam sư thúc đi cái đã!”

Thời gian nhàn tản của hai huynh đệ Hạc Cầm và Bàng Hạc đến hồi vãn, đôi củ mài của Bàng Hạc đang lon ton sắp vào ngõ sơn môn phía bắc còn “thích chơi pháo thuận” của Hạc Cầm cũng đã chui tọt về cốc phía nam, thân làm sư phụ đối với đệ tử lắm việc phải lo nên bọn họ nhanh chóng quay lại vị trí của mình, hoá thành hai vệt sáng như sao băng lao đi mất. Chiếc đình ngũ giác vắng hoe, bộ trà cụ ngăn nắp nằm lặng thinh trên bàn đá, gió thổi mây cây núi xì xào, tựa hồ tẻ nhạt nên muốn tạo âm vang, tựa hồ buồn tênh nên hỏi han nhau những chuyện xưa cũ.

Riêng Tân Cố vừa lừa được tên nhân phù khó chịu coi bếp tên Mít, cướp nồi cháo nguội bỏ chạy ra ngoài thư trai của thầy, xoạc chân ngồi trên bậc tam cấp múc lấy múc để, may mà mỗi nhân phù đều bị giới hạn phạm vi hoạt động chứ con người giấy đó nhanh chân hơn cả họ Tân vốn là “chồn cay” nổi tiếng vọt nhì vùng Chài, mấy lần toan bị bắt kịp. Cháo nấu từ hương mễ là cao lương mĩ vị chân chính song hắn chẳng nếm được gì vì đầu óc đang đầy ắp những tin tức nóng hổi, nhất là về thứ pháp bảo tên Đại Báo Kính do một lái buôn từ xa tận châu Mộc Tê tiết lộ kia, còn châu Nam Quế vốn là quê hương của hắn thì chẳng có tin gì mới mà hắn cũng chẳng cố tình để ý hỏi.

Đại Báo Kính đó là một mảnh vỡ từ pháp bảo cổ xưa, chứa đủ ngũ tố mà pháp bảo thường không có, tới nỗi mấy lão nguyên sĩ chưa đoán định được nó thuộc cấp bậc nào đã hội nhau toan tính tranh đoạt rồi. Tất nhiên họ Tân chẳng đủ tư cách tham gia việc ấy song hắn tự nhủ cứ thu thập thêm thông tin về nó đi, biết đâu chừng sau này sẽ có cơ hội tiếp cận, hơn nữa giả ai đó tập hợp hết số mảnh vỡ phân tán và ghép lại được thì chính là một món pháp bảo hoàn chỉnh, chắc chắn lợi hại gấp trăm lần mảnh vỡ hiện tại!

Sư phụ về rồi, ông luôn đi cửa chính!

Tân Cố thoáng nghe đám nhân phù gác cổng chào hỏi chủ cốc liền vội tìm gầm tủ giấu cái nồi ăn vụng của mình, ba chân bốn cẳng chạy ra đón thầy, tiếp đấy thì cần pha trà chong đèn vì sư phụ có thói quen đọc thư tịch vào mỗi buổi chiều…

“Sư phụ, người về rồi!”

“Ừ, mấy việc vi sư giao cho con đã làm chưa?” Hạc Cầm đạo nhân biết mà vẫn hỏi.

“Xong cả rồi ạ!” Tân Cố mau mắn đáp. “Nhưng mà con chưa rõ sư phụ định giã thuốc gì nên cứ để nguyên trong dược thất, giờ người muốn uống trà chưa ạ để con đi bắc ấm?”

“Thôi, hôm nay vi sư còn phải xử lí vài việc nên chưa có thì giờ đọc sách,” kì thật Hạc Cầm không thích đọc sách, khác hẳn sư đệ ông là con mọt trong thư trai, nhưng hồi xưa có lần lỡ hứa với Bàng Hạc mỗi ngày đều sẽ đọc ít nhất mười trang, thành thử đây không phải thói quen mà là nhiệm vụ. “Thời gian tu luyện rất quý giá, đừng chần chừ ở đây nữa, mau về tư thất lo công phu đi!”

“Dạ, vâng!” Tân Cố khom người, đan tay hành lễ với thầy rồi cáo lui.

Hắn về thất công phu thật đấy, bởi vận nguyên là nền tảng cho con đường tu nguyên dài xa sau này, ngay cả vận nguyên cũng làm không xong thì khỏi mơ tới chuyện cầm nổi pháp bảo đi, đừng nói là xài được chúng. Vì thế họ Tân mới chịu cố gắng, vừa đóng cửa thất đâu vào đấy liền trải bồ đoàn bắt đầu tập vận nguyên ngay, còn cái nồi ăn vụng bị nhét gầm tủ kia sớm muộn cũng có nhân phù nào đó đi ngang thu dọn giùm.

***
LỀ
Đạo Thành chân nhân 導 誠 眞 人 (âm Hán)
Mít 櫗 (âm Nôm)
Nhị Điểm 二 點 (âm Hán)
Tam Điểm 三 點 (âm Hán)
*
Cốc Bổn 谷 笨 (âm Hán)
Cốc 谷 (âm Hán) Gốc 梏 (âm Nôm)
Mộc Tê đại châu 木 樨 大 洲 (âm Hán)
Nam Quế đại châu 南 桂 大 洲 (âm Hán)
Tịnh Ngôn đường 淨 言 堂 (âm Hán)

****
CHÚ THÍCH
[1] Môn là khoai môn, khoai là khoai sọ, hai giống này bề ngoài khá tương đồng nên dễ nhầm.
[2 Nhiều là bách 百, thân thiết là nị 膩, phụ nữ quý tộc được xưng là nương nương 娘娘; bức tranh vẽ là hoạ 畫, sách làm thành bộ là tập 集. Bách nị nương nương Hoạ tập 百膩娘娘畫集 là bộ sách in tranh vẽ miêu tả những quý nương thân thiết với tác giả (có thể là chính hoạ sĩ), hiện chưa rõ nguyên tác (theo truyện).
[3] Kim loại là kim 金, vết thương là sang 瘡. Kim sang 金瘡 là vết thương do vật bằng kim loại gây ra.
[4] Xem chú thích “canh 更” ở chương 5.
[5] Lá trà được thu hoạch rồi phơi héo và rang qua lửa để tạo trà thành phẩm, thưởng thức bằng cách ngâm trà trong nước sôi đến khi nước chuyển màu do hoà tan tinh chất từ trà, gọi là trà sao 茶炒 (theo truyện).
[6] Củ mài có tên khác là hoài sơn, củ mì hay củ sắn còn gọi là khoai mì; rễ củ của hai giống này khi cắt lát phơi khô rồi đem nấu có vẻ ngoài và mùi vị gần giống nhau, do đó củ mì có thể làm giả củ mài nhưng người tinh tường vẫn phân biệt được.
[7] Đi không trở lại là thệ 逝, đời người là thế 世. Thệ thế 逝世 nghĩa là qua đời, là uyển ngữ chỉ sự chết.