Trong lúc Vương Vi đang miệt mài rèn giũa ngón nghề đầu tiên của mình thì Tân Cố cũng đã bái sư thành công, thật ra là xém thất bại, sư phụ của Ngạc Nhiên và Ngạc Thật là Bàng Hạc sư thúc rất ngoa nguýt, đã không vừa mắt hai tên đệ tử thì đời nào nhận thêm một thứ báo đời do chúng đem về? May nhờ sư huynh của ông ta là Hạc Cầm đạo nhân thấy Tân Cố còn nhỏ đã mồ côi lại không ai dạy dỗ nên giang tay ra vớt. Kể cũng buồn cười, họ Tân là kẻ vào sau mà lại đường đường làm sư huynh của bộ đôi Ngạc anh Ngạc em vốn nhập môn trước, nếu không phải sư phụ hắn răn nhắc câu “ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng” thì Tân Cố thật sự sẽ gọi bọn họ là “sư đệ” cho đúng vai đúng vế đấy!
Dẫu vậy cũng làm hắn hả hê một thời gian ngắn, ngoại trừ kiến trúc sơn môn ít hoành tráng hơn tưởng tượng thì chẳng gì không hài lòng, quyết định bỏ nhà đi học xa lần này quả nhiên vô cùng chính xác! Cụ thể, có ba điểm khiến Tân Cố cho là đáng giá sau khi chấp nhận lê lết theo hai gã họ Ngạc về được tới núi Thôi Vũ bái sư:
Một là vì tiếng tăm của Thôi Vũ Môn cực kì cực kì lớn, trong giới tu nguyên khắp đông ngũ bộ châu này chẳng ai chưa từng nghe danh, thậm chí chỉ vừa nhắc tới ba chữ “Thôi Vũ Môn” thôi là người ta đã sinh lòng hâm mộ!
Về đông ngũ bộ châu, Tân Cố cũng vừa được sư phụ Hạc Cầm mở mang cho: dưới gầm trời này trừ biển cả cùng các đảo và quần đảo nhỏ thì tồn tại ba mươi sáu đại châu, trong đó tại Trường Quy Hải nổi bật mười một châu lớn hội tụ về hai phía đối lập là đông và tây. Mô tả kĩ càng hơn thì năm châu phía đông hình như đoá nguyệt quý trắng tức đông ngũ bộ, sáu châu phía tây hình như đoá hồng hoàng phấn nhưng từ xưa riêng một châu hoàn toàn hoang hoá không người ở nên chỉ tính còn năm châu tức tây ngũ bộ. Tạm chưa bàn phía tây, nội phía đông thôi đã thấy nhiều nhặng khó kể xiết, như châu Mộc Lan mà Thôi Vũ Môn xây đại bản doanh trên ngọn Thôi Vũ hiện có bốn nước lớn lần lượt làm mẫu quốc: Càn, Khôn, Đại, Địa.
Nước Càn quốc hiệu là Càn quốc, dưới gồm hai nước chư hầu là Bá Sa và Tiết Khiêm; nước Khôn quốc hiệu là Khôn quốc, tứ bề có bốn nước chư hầu đều lấy hiệu là Lưu gia tứ Bá vương; nước Đại quốc hiệu là Đại quốc, còn có tên cổ là nước Nhiều Non và từng sử dụng cờ thêu chữ Nhiêu tức cố quốc Nhiêu, tuy không chiêu mộ chư hầu nhưng là quốc gia đông nguyên sĩ nhất và có tới mười môn phái tu nguyên lập đại bản doanh tại đây; nước Địa quốc hiệu là Địa quốc nhưng đa phần tự xưng là nước Đất, có một nước chư hầu phía đông nam với diện tích siêu nhỏ chỉ bằng một quận ngoại thành của mẫu quốc, nước chư hầu đó không lấy quốc hiệu vì tôn trọng tên đất cũ là Lộc.
Núi Thôi Vũ nói cho đầy đủ là quần thể Thôi Vũ sơn nằm giáp ranh nước Lộc, thanh thế của Thôi Vũ Môn hiện tại có được cũng nhờ ba vị nguyên sĩ đã đạt tới cảnh giới “đăng phong nhất thốn”[1] mà nổi tiếng nhất là chủ nhân của Chung Cực[2] kiếm: Tướng Vân kiếm khách, phó chưởng môn của Thôi Vũ Môn.
Tạm thời sư phụ chỉ bày tới đây thôi, Tân Cố sắp bội thực rồi…
Trở lại điểm thứ hai khiến Tân Cố đắc ý là đãi ngộ của Thôi Vũ Môn đối với đệ tử quan môn vô cùng tốt, lấy bản thân họ Tân ra làm ví dụ đi. Tuy lúc sơ cơ còn chưa thành đệ tử của ai thì hắn cũng giống như bao dự sinh khác, nghĩa là phải chờ qua ải kiểm tra tư chất mới rõ số phận được vào hay không, nhưng nhờ theo đuôi hai anh em họ Ngạc mà hắn may mắn gặp được Bàng Hạc trưởng lão cùng Hạc Cầm trưởng lão đang cùng nhau đàm đạo ở hành viện. Chuyện lúc đó khá lôi thôi, Tân Cố chỉ nhớ là Ngạc Nhiên và Ngạc Thật ôm đầu chạy khắp hành viện vì bị sư phụ đuổi đánh, rồi hắn được Hạc Cầm trưởng lão vốn nhàn rỗi hỏi thăm, họ Tân kể khổ một tràng vậy mà lại khiến ông chịu thu làm đệ tử, thế là lên đời.
Bấy giờ Tân Cố mới biết rõ hơn rằng, trong việc tu nguyên ngoài học công pháp để luyện tự thân còn cần một số yếu tố phụ trợ bên ngoài, phải kể đến gồm hoàn đan, thông linh cụ, ứng phù và đặc biệt là pháp bảo bởi vì pháp bảo giúp nguyên sĩ tiến tiểu cảnh giới và thăng đại cảnh giới. Khi hắn tò mò hỏi về cái gọi là “bổ túc nhân” thì sư phụ lập tức gạt đi, phê bình hai đệ tử của sư đệ mình là Bàng Hạc lãn nhân gan thỏ mà muốn làm càn, khéo tu một hồi không thành tà ma ngoại đạo mà thành điên điên khùng khùng! Tóm lại pháp bảo là vô cùng quan trọng, đa phần ở cảnh giới cao thì nguyên sĩ luôn gắn kết với món pháp bảo do chính mình luyện ra và có tới bốn loại, song ở giai đoạn cơ sở như họ Tân thì được ban cho một pháp bảo cấp hai như Ngọc Kính đã là rất hào phóng rồi.
Vốn dĩ Hạc Cầm đạo nhân muốn đứa học trò duy nhất này đi bước nào chắc bước nấy, toan đưa hắn pháp bảo cấp một vì tầm nửa năm nữa may ra hắn mới cầm nổi nó nhưng Tân Cố nghĩ tên rừng rú Vương Vi kia ăn may được một món cấp hai, không thể để bản thân thua thiệt bèn quỳ xin sư phụ ban cho một pháp bảo cấp hai, thế mới công bằng!
Vì cái “công bằng” trên mà họ Tân đấu tranh rất nhiều, hứa với thầy trong nửa năm sẽ thuần thục Tam Sào Đại Cước, một loại phương thuật nhưng đứng đầu các bôn thuật[3] dành cho tầng lớp lực sĩ, ngay tới anh em họ Ngạc tuy sắp thăng đại cảnh giới chuẩn bị bước vào tầng lớp tu nguyên thực sự còn phải chuệch choạc khi thực hiện nó. Rõ ràng hắn còn nói liều hơn cả hai tên “sư đệ” kia, cũng tại Hạc Cầm trưởng lão lỡ tiết lộ cho “tấm chiếu mới” quá nhiều tin tức nội bộ mới dẫn đến nguyện vọng “tham trải chiếu” này! Cuối cùng sư phụ Hạc Cầm cũng bị sự cố chấp tới đần của Tân Cố làm lay động, chấp nhận để hắn tham lam một lần nhưng thay vì nửa năm là cái hạn “tự sát” thì cho hẳn một năm, còn bảo nếu Tân Cố thực sự thành công thì sẽ cất nhắc hắn vào hàng ngũ đi thám bảo như Ngạc Nhiên và Ngạc Thật đã được vào.
Thế phải tốt quá không cơ chứ!
Tân Cố chẳng còn gì để phàn nàn, mặc dù pháp bảo Ngọc Kính hiện giờ chỉ có thể ngắm chứ chẳng thể rờ mó gì nhưng tâm hồn của họ Tân sắp lâng lâng bay đến tầng cao nào đó, thấy quá chừng pháp bảo đang đứng chờ mình bơi tới ôm hết vào lòng…
Điểm thứ ba là ngoài đệ tử quan môn còn có lớp đệ tử kí danh khá đông, kiểu đám học trò đứng nhòm vách chứ chưa được ngồi vào lớp ấy, nhìn đến chúng khiến Tân Cố cảm thấy bản thân tựa hồ đứng chễm chệ trên mây ngó phàm nhân đi bộ dưới đất, cũng không cần để tâm xem các phàm nhân kia có ngưỡng mộ kính sợ trông lên hay không cũng đã sinh lòng dương dương đắc ý. Quy củ của Thôi Vũ Môn rất nghiêm ngặt, họ Tân giờ đã là đệ tử quan môn nên phải nhất nhất theo thầy chứ không được nhàn tản thả bộ loanh quanh, Hạc Cầm đạo nhân ở một cốc riêng do đó Tân Cố cũng trở thành đồng tử hầu trong cốc, nếu hắn được thả rông ắt sẽ tìm mấy kẻ “phàm nhân” nọ bắt nạt nhiều phen, dù sao thói cũ thuở còn sống tại quê nhà đâu chỉ vài bữa dăm hôm mà thôi hẳn.
Cốc của sư phụ Hạc Cầm nằm ở mặt nam của dãy Thôi Vũ, là hướng tốt, nhiều cốc khác cũng ưa hướng này, bởi vừa khỏi chịu nắng sớm chói chang vừa tránh được ánh chiều gay gắt, lại mùa hè mát do đón gió đông nam và gió nam, lại không bị gió nóng phía tây ảnh hưởng cũng như gió lạnh phương bắc tràn xuống khi đông về. Từng vị trưởng lão đều sở hữu một sơn cốc cho mình để thanh tu cùng nuôi dạy đệ tử quan môn, đồng thời cốc còn đảm nhiệm nhiều chức năng khác như đặt lò luyện, nấu thuốc, tiểu thư viện… Trung bình mỗi trưởng lão thường thâu nạp từ một tới sáu học trò, trường hợp thu nhận nhiều đệ tử hơn khá hiếm vì Thôi Vũ Môn xưa nay chủ trương “trọng chất lượng, không trọng số lượng”, và còn bởi một nguyên nhân nữa là trong môn có rất nhiều trưởng lão nên không sợ thiếu người dạy.
Hạc Cầm đạo nhân đặt tên cốc của mình là Dã Vị, hàm ý “tư vị thôn dã” do ông xuất thân từ một gia đình làm nông, Hạc Cầm biết đến tu nguyên nhờ kì duyên và Hạc Cầm đạo nhân đương nhiên là hiệu chứ không phải tên thật, huý của ông là Tư vì làm con thứ tư trong nhà và không có họ. Tân Cố cứ thắc mắc tính kì cục của sư phụ, vì sao cứ mãi nhớ thuở nghèo hèn để làm chi? Trải bao cực khổ mới từ kẻ nhà quê thành nguyên sĩ, làm bậc trưởng lão được người vâng kẻ dạ trong một tông môn tiếng tăm, mấy chuyện xấu hổ như cái thời hàn vi chỉ biết cày sâu cuốc bẫm ấy đáng nhẽ nên quên hết! Đều là quá khứ cả rồi, không ai biết càng tốt!
Hoài niệm ích gì? Chẳng lẽ sư phụ còn muốn quay lại cái cuộc đời nhỏ mọn dù sống hay chết cũng chẳng kẻ nào thèm quan tâm đó hay sao?
Hắn không hiểu, không muốn hiểu!
Tài nguyên trong cốc phải nói là nhiều, lấy kho đụn hương mễ ra so thôi phải gấp trăm lần vựa gạo của bố Đỗ, hoá ra thứ gạo thơm mà Ngạc Nhiên từng muốn dùng trao đổi pháp bảo với họ Tân lúc trên lầu Lạn Nguyệt chính là loại hương mễ này. Hương mễ đặc biệt hơn gạo thường ở chỗ nó được trồng bằng bùn sao, một loại đất nổi trên nước và trông lấp lánh rất đẹp, tất nhiên hương mễ không thể canh tác đại trà như lúa ngoài đồng mà chỉ chăm dưỡng được trong chậu riêng, mỗi lần thu hoạch khá ít, một chậu hương mễ đong hạt chừng nửa ang[4] đã là bội thu rồi. Những người tu nguyên ở giai đoạn cơ sở nếu không nhờ ăn hương mễ để loại dần tạp chất trong cơ thể mà chỉ dùng phương pháp vận nguyên thì cả đời chẳng thăng nổi đại cảnh giới đầu tiên, đồng nghĩa vĩnh viễn không thể trở thành nguyên sĩ, cùng lắm làm lực sĩ mạnh gấp vài chục lần người thường mà thôi. Thế cũng đủ thấy hương mễ rất quý, dẫu vậy nếu so với pháp bảo cấp hai thì sao bằng được? Tân Cố hẵng tự khen, lúc đó từ chối không đổi pháp bảo đều may nhờ bản thân thông minh.
Thấm thoắt đã hơn ba năm kể từ khi nhập môn, hắn làm quen với môi trường mới cực nhanh, dù sao cũng giống kiểu sai vặt mà nhẹ nhàng hơn nhờ mớ “nhân phù” hết sức hữu dụng của sư phụ. Ban đầu Tân Cố còn bị chúng doạ vì trông y hệt người thật, đã giỏi quét tước tưới cây còn biết trò chuyện nữa chứ! Kì thực chúng đều là bùa giấy, dĩ nhiên khác với giấy viết biên lai giao gạo, giấy đó đụng nước là bèo nhèo chứ có biết biến thành người hầu bao giờ, nhân phù này có tên chữ là “trừu tảo bản”[5], một loại ứng phù bậc trung, nếu đổi bằng thanh kim tốn khoản hai đồng.
Với họ Tân, câu “có tiền mua tiên cũng được” mà bố Đỗ dạy cho đã ăn vào máu, ngay khi nghe Ngạc Nhiên nhắc đến vấn đề này với Ngạc Thật hắn đã nịnh nọt hỏi han, mới hay rằng thứ tiền thanh kim này chứa nguyên năng tương tự một thông linh cụ, tuy vậy công dụng chủ yếu của nó cũng chỉ là vật trao đổi trung gian giữa các nguyên sĩ với nhau nhưng ở mức tầm thường thôi, nguyên sĩ cảnh giới cao ít khi dùng thanh kim giao dịch mặc dù vẫn mang theo coi như đồng lẻ để tiêu vặt. Điểm trọng yếu nằm tại việc quy đổi tiền thanh kim bằng giao tiền, giao tiền là gọi chung mọi loại tiền tệ của người thường trong việc mua bán: một đồng thanh kim bằng một ngàn đồng vàng!
Tân Cố nghe Ngạc Nhiên nói xong liền suýt xỉu, từ thuở có hiểu biết tới giờ hắn còn chưa từng cầm trên tay đồng vàng lần nào huống hồ là cả rương tiền vàng, hỏi sao không chấn động tinh thần cho được? Họ Ngạc còn tiết lộ thêm rằng ngoài kia chả ít kẻ giàu cự phách dám dùng một nửa gia sản để đổi một món đồ nho nhỏ có chứa nguyên năng của nguyên sĩ nhằm làm vật hộ thân, nhiều nhất chính là ứng phù và thông linh cụ, bởi chúng có thể tự phản ứng với công kích hoặc tự kích hoạt khi gặp điều kiện nhất định. Người thường tuy sở hữu lượng nguyên năng ít ỏi nhưng về cơ bản cũng là nguyên uyên nên những thứ này thật sự hữu dụng, chí ít có thể giữ mạng trong các cuộc ẩu đả thông thường. Song muốn luyện phù hay thông linh cụ không hề dễ, thông linh cụ đã rất gần với pháp bảo rồi nên càng khó chế tạo hơn cả ứng phù, Tân Cố sớm bác bỏ ý tưởng tự sản xuất chúng để bán nhưng nếu hắn làm “cò” giữa nguyên sĩ và người thường có nhu cầu đổi chác với họ thì sao? Hời đấy chứ!
Từ đó mục tiêu đầu tiên của họ Tân không phải là chăm chỉ tu luyện nhằm chạy đua với thời gian trước hạn “tự sát” mà là tìm cách mở rộng quan hệ với đồng môn, kiếm mối làm ăn trong giới tu nguyên. Vậy nên hôm nay hắn được sư phụ giao nhiệm vụ sang cốc của Bàng Hạc trưởng lão lấy ít nguyên liệu về giã thuốc, Tân Cố nhân cơ hội rảo vài vòng chào hỏi sư huynh đệ mấy cốc xung quanh cho quen mặt, đặng sau này dễ bề bàn bạc hơn.
Tiêu tốn thời gian một hồi thì tình cờ đi ngang sườn núi, trông qua bên kia có mấy ngọn từng là non cao bị trận đại chiến năm xưa phá tan hoang, còn mỗi cái nền của đình ngũ giác cũ làm chứng nhân cho chiến tích oai hùng của phó chưởng môn hiện tại, được chính chưởng môn đặt cái tên dài ngoằng làm kỉ niệm là “Trảm thập nhị anh hào chi Thạch đài” mà môn sinh sau này toàn gọi tắt thành đài Trảm Anh. Trên dưới sơn môn đều rõ sự tích trên nên Tân Cố không thể không biết, cố là mấy trăm năm trước Thôi Vũ Môn nhỏ bé đến mức chỉ như hạt cát trên bản đồ các tông phái tu nguyên, chẳng ai hay ở cái góc xó của châu Mộc Lan có núi tên là Thôi Vũ, trên núi ấy tồn tại một phái lấy tên Thôi Vũ Môn. Cho tới năm kia, tại góc xó đó bất ngờ xuất hiện nguyên triệu cấp “linh” tức là khiến tất cả nguyên sĩ khắp châu Mộc Lan đều linh thông cảm biết, biết việc gì? Rằng đang có một nguyên sĩ đột phá đại cảnh giới “đăng phong nhất thốn” tại đấy và đã đột phá thành công, đừng nói là Đại quốc lắm cao thủ tu nguyên mà giáp hết đại châu Mộc Lan thời bấy giờ cũng chỉ có chín vị “đăng phong nhất thốn” mà thôi!
Từ đó cái tên Thôi Vũ Môn được nhiều người nhớ đến, các tông phái khác tranh thủ cử sứ giả mang lễ vật sang chúc mừng cùng kết giao, vị nguyên sĩ khiến sơn môn rạng mặt ấy chính là chưởng môn hiện tại: Bách Đào chân nhân. Chưa bao lâu sau, cũng góc xó nọ lại phát khởi nguyên triệu cấp “linh” còn là hai lần sát nhau liên tiếp, chỉ cách nhau nửa canh giờ, vị đầu tiên là Sát Đào chân nhân, vị thứ hai là Tướng Vân kiếm khách; lần đồng thăng cảnh cực hi hữu ấy, những người đã từng chứng kiến luôn nhớ mãi không quên. Thôi Vũ Môn vậy mà xuất hiện tới ba “Lăng phong giả”[6]!
“Lăng phong giả” là biệt hiệu dành riêng cho nguyên sĩ đã bước vào cảnh giới “đăng phong nhất thốn”; cả “đăng phong nhất thốn” và “Lăng phong giả” đều mang nghĩa tương tự nhau nhưng cái trước chỉ cảnh giới, cái sau chỉ người đạt được cảnh giới đó. Thật ra sư phụ có giảng thêm dài lắm, gì gì nguyên đính đại thành này nọ song họ Tân chỉ tiếp chứ không thu được, thế nên đoạn cảnh giới tu luyện này là nước đổ lá môn…
Tiếc thay chuyện vui thường chẳng kéo dài lâu, Thôi Vũ Môn cứ vậy nổi bần bật giữa chúng lại thích đứng riêng một góc liền trở thành cái đinh lồi trong mắt không ít người, mặc dù kẻ nào muốn rục rịch cũng cần cân nhắc nhiều về cái giá phải trả nếu nhắm đến việc hạ bệ một sơn môn được trấn thủ bởi ba Lăng phong giả.
Thế rồi Sát Đào chân nhân đột nhiên chiến tử!
Tân Cố không hứng thú mấy chuyện ẩu đả nên chẳng hỏi chi tiết, chỉ biết là vị phó chưởng môn tiền nhiệm vì vấn đề gì đó mà đánh nhau với thiếu cung chủ của tộc Lộc Ngạc, hai bên chênh lệch khoảng một tiểu cảnh giới nhưng có một chuyện phải nhớ kĩ: chiến đấu với cái tộc mạnh nhì trong số các đại tộc này mà không thắng nhanh được thì chạy liền đi, bởi tộc Lộc Ngạc bẩm sinh có khả năng hấp súc nguyên năng rất dị thường nên đánh càng lâu thì càng mạnh. Kết cục Sát Đào chân nhân thua trận, vị thiếu cung chủ nọ cũng bỏ đi chẳng màng chiến lợi phẩm trên người đối thủ, lúc Bách Đào chưởng môn kịp tới nơi thì phải đánh tiếp với một hải xà toan nuốt thi thể sư đệ, lần này thì chưởng môn thắng và đưa được di hài của Sát Đào về sơn môn hoả táng, bấy giờ toàn môn phát tang miễn tiếp khách.
Đương lúc bầu không khí tang thương bao trùm thì có mười hai cao thủ cảnh giới “đại thành” đến xin chiêu mộ sơn môn vào dưới trướng tông chủ họ, phía trên mười hai kẻ này là đệ nhất tông môn của châu Mộc Lan: Vân Kiệt Tông. Chủ trương đó giờ của Vân Kiệt Tông là quảng nạp anh tài, kết giao hào kiệt; tuy mười hai người đó khăng khăng bản thân tự ý hành động do mấy lần tông chủ bên họ mời mọc mà Thôi Vũ Môn cứ lạnh nhạt ngó lơ, bọn họ làm kẻ dưới thấy chủ mình bị phũ mới nóng lòng, bèn họp nhau mang thành ý đến mong Bách Đào chân nhân cứu xét cho. Chưởng môn đang buồn bã không vui, với lại đã báo môn tang miễn tiếp khách rồi tự dưng bị hơn chục tên không hiểu lễ phép tới làm phiền, đành phân phó Tướng Vân trưởng lão đang tạm giữ vị trí phó chưởng môn đi đuổi khách. Kể thế này:
Tướng Vân ra mời khách về, hẹn hôm khác mãn tang hẵng nói chuyện sau thì bị tấm chân tình của bọn họ làm cảm động song môn quy lại không thể trái, nên bảo họ rằng:
“Hay bây giờ các vị cùng ta thể hiện tài năng, nếu Tướng Vân này bị các vị thuyết phục thì ta sẽ thay chưởng môn đồng ý với lời mời từ tông chủ của các vị. Nói nào ngay thì chưởng môn cũng đã giao toàn quyền xử lí việc này cho ta rồi, nên các vị cứ yên tâm là Thôi Vũ Môn chẳng lật lọng đâu!”
Dẫu khi ấy Tướng Vân trưởng lão mới bước vào “đăng phong nhất thốn” khoảng vài năm còn bên phía đối thủ đều dưới ông một tiểu cảnh giới nhưng tới tận mười hai người, thêm nữa bọn họ là đệ tử của Vân Kiệt Tông thế mạnh người đông lại giàu sụ thì ngoài pháp bảo hãy lận lưng không biết bao nhiêu bảo bối khác! Phải rõ Tướng Vân trưởng lão trừ kiếm Chung Cực là một quán tinh giới ra hoàn toàn không kèm theo gì khác kể cả ứng phù bậc cao, vì Thôi Vũ Môn khi ấy vẫn nghèo lắm, gọi là có tiếng mà chưa đủ miếng. Quán tinh giới tốt nhất thì tiệm cận một thông linh cụ, về cơ bản đó là vũ khí thông thường được tẩm nguyên năng lâu dài nên cứng cáp và sắc bén hơn ban đầu gấp vài trăm đến khoảng ngàn lần, muốn đánh gãy một quán tinh giới bằng sức của vài chục lực sĩ là không thể nào song với một nguyên sĩ “đại thành” thì có thể.
Tóm lại thì Tướng Vân trưởng lão vẫn đấu và vẫn thắng, đáng chú ý là mười hai tên cao thủ ấy chiến rất hết mình, không chết không thôi, thành thử ra chết hết cả! Tướng Vân trưởng lão thắng cũng không dễ dàng, đáng gọi là khổ chiến tới cùng để giành chiến thắng chung cục, dù sao ông đã mang cả cái danh sơn môn ra đánh cược thì thua nào chỉ mỗi mình tẫn thân mà cả tông môn cũng thành vật trong túi của người ta mất. Có thể thấy cái lời mời lịch sự kia đã tỏ rõ cho đối thủ biết thái độ quyết liệt của ông trước những yêu sách quá đáng từ phía họ.
Sau trận chiến trên thì Vân Kiệt Tông lại cử ba vị trưởng lão sang phân ưu và giảng hoà, giải thích rằng tông chủ khi ấy không biết cũng không hề phái người tới gây chiến mà là bọn họ tự ý đi, tuy bị tổn thất nhân thủ nghiêm trọng nhưng Vân Kiệt Tông chỉ coi đó là “sự cố đáng tiếc” và vẫn không thay đổi ý định muốn giao hảo với Thôi Vũ Môn. Tông chủ bên đấy còn hào phóng gửi tặng một dịch phương đài và mười tấm lệnh bài đặc biệt cho chưởng môn Bách Đào chân nhân, riêng với vị tân phó chưởng môn thì là một phi hiên với một tấm lệnh bài tương tự, ngỏ lời nếu Tướng Vân trưởng lão coi trọng y mong rằng sẽ đến Vân Kiệt Tông nhận chức trưởng lão danh dự và làm sứ giả đại diện cho Thôi Vũ Môn tại bản tông. Tựu trung ai ai cũng rành mấy việc lằng nhằng khách sáo này có ý nghĩa gì nhưng chẳng dại mà quay lưng thẳng mặt, cuối cùng Tướng Vân trưởng lão nghe lời bàn bạc của mọi người trong môn xong thì đến làm khách Vân Kiệt Tông đồng thời là sứ giả đại diện luôn, nhờ đó mở ra cơ hội cho các đệ tử sơn môn được giao lưu rộng rãi trong tu nguyên giới.
Còn bãi chiến trường của trận một chấp mười hai nọ trở thành cái đài phế tích như hiện nay, chưởng môn Bách Đào chân nhân không muốn khiến Vân Kiệt Tông mất thể diện nên gọi mười hai tên ngay lúc nhà người ta có tang lại kéo đến gây sự kia là “thập nhị anh hào”. Còn “trảm” thì có trảm thật, mười hai người đó đều bị kiếm Chung Cực chém chết tại đây, các di thể đã được trưởng lão của Vân Kiệt Tông mang về hoả táng nên chỉ còn lưu lại những vết tích chiến đấu khắp vách đá, cùng vô số hang hố loang lổ giờ đã mọc đầy rừng bụi xanh rì. Tân Cố chỉ rút ra được một điều sau khi nghe hết sự tích này là phái Vân Kiệt Tông kia giàu phết, giá mà được làm đệ tử bên ấy song hắn kịp nghĩ lại: cái chỗ toàn cọp sấu ẩn mình thế thì nào có dễ vào, khéo trầy da tróc vẩy còn phải ngậm bồ hòn làm ngọt! Sao bằng nơi đây yên ổn hơn mà điều kiện cũng chẳng thua kém mấy, phải cảm tạ trưởng lão Tướng Vân đã liều mạng một phen để kẻ đi sau là họ Tân hắn hưởng sấy[7] thành quả…
Tân Cố tiếp tục bước thong thả theo sơn đạo khi vừa dừng chân ngắm cảnh đỗi lâu, chếch quãng dốc ngắn kể từ chỗ trông qua đài Trảm Anh có chôn một khối đá khắc chữ cao ngang vai Cố, vốn do đích thân Tướng Vân trưởng lão tự tay khắc lên nhân dịp kỉ niệm một trăm năm gia nhập tông môn. Câu đó cũng bình thường còn chữ nhìn cũng tạm được, khắc rằng:
“Nói lời phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay.”
Họ Tân chẳng thấy thấm thía đạo lí gì từ câu trên, hồi ở quê vùng Chài đám con nít cởi truồng chăn trâu còn biết nghêu ngao câu đấy, chắc là vị Tướng Vân kiếm khách chẳng biết khắc câu gì cho oai lại chợt thấy con bướm nào bay ngang bèn nhấc kiếm nguệch ngoạc đại ra thôi! ***
LỀ Bách Đào chân nhân 柏 濤 眞 人 (âm Hán) Bàng Hạc lãn nhân 磅 鶴 懶 人 (âm Hán) Hạc Cầm đạo nhân 鶴 捦 導 人 (âm Hán) Lưu gia tứ Bá vương 留 家 四 霸 王 (âm Hán) Sát Đào chân nhân 察 陶 眞 人 (âm Hán) Tư 𦊛 (âm Nôm) Tướng Vân kiếm khách 相 雲 劍 客 (âm Hán) * Càn 干 (âm Nôm) quốc 國 (âm Hán) Cố quốc Nhiêu 故 國 饒 (âm Hán) Cốc Dã Vị 谷 野 味 (âm Hán) Đài Trảm Anh 臺 斬 英 (âm Hán) Đại quốc 黛 國 (âm Hán) Đất 𡐙 (âm Nôm) Lộc 麓 (âm Hán) Địa quốc 地 國 (âm Hán) Khôn 坤 (âm Nôm) quốc 國 (âm Hán) Mộc Lan đại châu 木 欗 大 洲 (âm Hán) Nước 渃 (âm Nôm) Bá Sa 伯 沙 (âm Hán) Nước Đất 渃 𡐙 (âm Nôm) Nước Nhiều Non 渃 𤄮 𡽫 (âm Nôm) Nước 渃 (âm Nôm) Tiết Khiêm 節 謙 (âm Hán) Thôi Vũ sơn 推 武 山 (âm Hán) Trảm thập nhị anh hào chi Thạch đài 斬 十 二 英 豪 之 石 臺 (âm Hán) Trường Quy Hải 長 歸 海 (âm Hán) Vân Kiệt Tông 雲 傑 宗 (âm Hán)
**** CHÚ THÍCH [1] Từ chỗ thấp lên chỗ cao là đăng 登, đỉnh núi là phong 峰, một là nhất 一, tấc (cỡ ngón tay) là thốn 寸. Đăng phong nhất thốn 登峰一寸 là bước lên đỉnh núi lại trên đỉnh một tấc, hàm nghĩa đã bước vào khoảng không cao hơn đỉnh núi. [2] Suốt, trọn là chung 終, tận cùng là cực 極. Chung cực 終極 hàm ý theo trọn tới chỗ xa nhất, bền bỉ đến cùng. [3] Xem chú thích “cái ang 丐盎” ở chương 5. [4] Chạy nhanh là bôn 奔, phương pháp là thuật 術. Bôn thuật 奔術 là tên gọi chung cho loại công pháp giúp di chuyển nhanh (theo truyện). [5] Nhổ bỏ là trừu 抽, tiêu trừ là tảo 掃, miếng (mảnh) là bản 爿. Trừu tảo bản 抽掃爿 là tên loại ứng phù chuyên dùng vào việc quét dọn làm sạch, lúc chưa sử dụng thì có dạng một miếng giấy (theo truyện). [6] Vượt qua là lăng 淩, đỉnh núi là phong 峰, từ xưng thay người hoặc sự vật nào đó là giả 者. Lăng phong giả 淩峰者 nghĩa là người đã vượt qua đỉnh núi, ý chỉ đạt được đỉnh cao nào đó mà trở nên siêu việt. [7] Người đi trước làm ra thành quả, người đi sau không làm gì cả mà cũng được hưởng chung thành quả đó, gọi là “đi theo hưởng sấy” (phương ngữ).