Thương Sinh Quái Khách

Chương 5: Chợ đồng nham



“Theo voi hít bã mía!”

Đó là câu miệt thị ở xứ này mà Vương Vi vừa học được, đối tượng của câu vừa rồi chính là y còn kẻ phát ngôn thì là ai đó trong đám du thủ du thực ngồi cả nắm bên góc đường, “bã mía” khả năng chỉ đồng nát còn “voi” ở đây chắc chắn là chú Thác, tính ra y cũng gặp may vì mới chân ướt chân ráo đã gặp ngay tay lão làng trong ngành. Nghề lượm đồng nát cần hai yếu tố trên hết: kĩ lưỡng cùng may mắn; kĩ lưỡng không bỏ sót món phế liệu nào có thể nhặt và hay cũng chưa bằng hên, đôi lúc ruột của thứ xoàng xĩnh lại rất cầu kì khi bóc tách phân loại.

Vương Vi đã “nhập môn” được một tháng, trước tiên cần thuộc lòng mọi ngõ ngách trong và ngoài thành, những chỗ hay xuất hiện phế liệu không chỉ bãi rác mà có thể là ngay dưới cửa sổ tầng hai của nhà mạ bạc, lúc nhặt nhạnh nhớ cẩn thận trên đầu và nên đội hai lớp nón. Tiếp theo cần học dùng trực giác và kiến thức để phán đoán giá trị của từng mảnh phế liệu, không phải bạ gì cũng nhặt, hơn nữa cũng giống đương bữa ăn chung chớ thấy đồ ngon liền vội gắp sạch, bởi có nhiều “đồng môn” khác cùng tác nghiệp trong thành nên đôi khi cố tình nhường lại cho họ một phần ấy mới thật biết làm ăn. Cuối cùng là cách trả giá, gồm một chuỗi liên hoàn: nắm giá gốc, biết giá thị trường chung, mặc cả kiếm lời khi giao dịch với giá trôi nổi; giá thị trường là giá niêm yết bởi cơ quan thu mua của triều đình gọi là phủ Thiện Lí, giá gốc là giá thẩm định bởi thợ chế tác kim loại và thường sít sao so với giá thị trường nên người ta chỉ mua giá gốc chứ không bán giá gốc, giá trôi nổi gần như là tiêu chuẩn đối với dân làm nghề thu thập phế liệu.

Thêm việc nữa phải biết là quy đổi tiền tệ trên cả Hoành quốc hơi khác so với vùng Chài, một đồng “cây mai” bằng ba mươi hào kẽm, trên đồng “cây mai” là đồng tiền cổ chỉ dành cho tầng lớp cao sử dụng buôn bán với nhau, hệ thống tiền xu đã bị bãi bỏ khoảng ba mươi năm trước. Giá cả sinh hoạt trong thành Đồng Nham khá đắt đỏ vì hầu hết nhu yếu phẩm phải nhập từ bên ngoài, mỗi bữa ăn đều cần tính toán chi li, chưa kể nếu thuê chỗ trọ thì luôn đau đáu tiền ở trước kì trả cho chủ thuê. Dù Vương Vi không phải lo vấn đề nơi trú và nấu ăn thì vẫn phải đắn đo chuyện mua thực phẩm và thuế nghề, thuế nghề lượm đồng là một nhánh của thuế thu mua phế liệu, đánh vào tất cả đối tượng hành nghề này trên đất của quốc gia, bất kể có tên trong sổ hộ tịch hay không, dân nước khác tới làm vẫn được và mức thuế phải đóng cũng tương đương người nước Ngang. Trước, thuế nghề phế liệu từng ở mức đỉnh điểm là sáu phần mười trên tổng một giao dịch, do khi ấy lực lượng trong ngành bùng nổ đông đến nỗi đường xá sạch bong không một miếng rác, người nào hớ hênh để giày dép không đúng chỗ bị dân nghề nhầm là đồ thải thì xác định mất của chẳng biết kêu ai, thúc đẩy triều đình chủ động đánh thuế mạnh tay để người ta tự sớt bớt nhân lực qua nghề khác.

Dạo gần đây do trên kinh sắc chiếu chiêu mộ thợ đúc đồng và kêu gọi dân chúng đóng góp đồng cho quốc gia nhưng không nêu mục đích cụ thể, hệ luỵ là giá đồng tăng kéo giá các kim loại khác leo cao theo vì đồng hút thì người ta chuyển sang sắt cũng như những loại hợp kim khác để chế tác đồ sinh hoạt và giảm giá thành. Hiện tại thuế lượm đồng đang ở mức hai phần mười và có thể sẽ hạ thêm nữa, do đợt vơ vét đồng quá mạnh tay của triều đình khiến không ít dân nghề lượm bất mãn giải nghệ hoặc chuyển ngành làm suy yếu khả năng thu hồi phế liệu đồng, lượng đồng nguyên tồn trong nước cũng chẳng còn bao nhiêu, ngay cả đồng phế phẩm cũng khan hiếm và bị hớt ngay trong xưởng để đem cống lên ngân khố quốc gia. Những ngành có đồng là nguyên liệu trong sản xuất bị ảnh hưởng dây chuyền khiến vật giá từ đầu vào tới sản phẩm đầu ra cứ thế đội dồn, lái buôn và dân thường đều chịu tác động tiêu cực mà nguyên nhân lại không đến từ bên ngoài. Thế nên trước khi hoàng đế cùng nội các ra sắc lệnh mới nhằm bình ổn tình hình ngành kim loại trong nước nói chung thì mọi người đành tự liệu cơm gắp mắm, đi bước nào tính bước nấy.

Kể tới đây, chú Thác trầm ngâm rồi nói:

“Rất nhiều người nghi ngờ sắp có chiến tranh nên cần đồng đúc hoả khí, kì thực khả năng này là thấp vì nước Ngang vốn nghèo tài nguyên cũng không có vị trí chiến lược trên bản đồ, mấy trăm năm nay chưa từng phải vẽ lại địa giới lần nào, đáng lo hơn là có thể đang ngầm xảy ra một sự kiện tranh giành nào đó giữa các thế lực cắm rễ trong triều nội… Tuy hiện tại dân nghề chúng ta đang được hời nhưng theo ta thấy không nên gióng trống khua chiêng khiến quan trên chú ý, có mấy vụ chủ vựa đồng nát được triệu tập lên kinh tiến vua rồi chả thấy về nữa, e rằng sự thật đằng sau không đơn giản đâu!”

Nói xong lại tiếp tục nhặt nhạnh mớ đồng thiếc vỡ trong đụn rác sau chợ đồng nham và giảng cho Vương Vi nghe cách quan sát bằng mắt thường để xác định thành phần của phế liệu đồng. Đây là ngôi chợ lớn nhất thành Đồng Nham nên được hưởng “ké” cái tên, mặt tiền của chợ khá giống chợ thường là bán tạp hoá, khúc giữa bán thịt, cá, rau, cải, đồ tươi v.v khúc đuôi mới bán những thứ có liên quan tới nghề mà họ Vương đang theo học nhưng là “đồng mới” chứ không phải “đồng nát”, có thể kể đến như: nồi, xanh[1], niêu, chảo, cuốc, mai… Người nước Ngang có câu “ba cây mai vàng không bằng nửa ang đồng nát”, tiền “cây mai” đúc từ vàng tức đồng tiền cổ có giá trị cao nhất trong hệ thống tiền tệ của Hoành quốc, so với đồng thường thì đồng cổ được khắc thêm hai chữ “uyên bảo” nằm dọc, xứ khác người ta đong gạo bằng ang[2] gỗ nhưng ở xứ này thì ang đồng lại không hiếm, một đồng tiền cổ mua được hàng chục cái ang đồng mới nhưng trong mắt dân bản xứ thì ang đồng vẫn trọng thị hơn, thế là đủ hiểu giá trị quan của bọn họ như thế nào rồi.

Đồ đồng phế liệu đa phần là hợp kim đồng chứ rất hiếm loại ròng, các xưởng nấu đồng sẽ nung chảy và loại bỏ tạp chất của chúng để lọc ra đồng nguyên chất, rồi đổ khuôn tạo thành khối đồng mới, từ đó bắt đầu vòng đời tiếp theo của những “bạn đồng”. Thành Đồng Nham bắt cặp với những thành khác trên khắp Hoành quốc thì về mặt nào cũng thua, song đếm sơ sơ cũng thấy tới ba xưởng chế tác đồng đã hoạt động ít nhất hai mươi năm trở lên, đó là chưa kể đến các xưởng kim loại khác như sắt, gang và bạc, kẽm thì không có nhưng chỗ thu mua nó lại đầy ngoài cảng. Hoàn toàn đặc biệt đối với tiêu chuẩn thẩm mỹ xứ Đồng, bận nọ A Ba kể cho Vương Vi nghe lần duy nhất viếng thăm kinh thành của gã, gã bảo mấy cô thứ dân còn cài trâm vàng chứ cung nữ là chê chỉ xài trâm đồng, trâm sắt thì mỗi đàn ông cài, bệ vua ngồi cũng bằng đồng chỉ phần rìa ngoài mới dát vàng trang trí mà thôi, sứ giả nước khác lần đầu đi sứ sang đây cũng phải trầm trồ trước những phẩm vật chế tác tinh xảo bằng đồng trong cung nội cũng như trang sức của hoàng hậu và các thứ phi. Có thể thấy “bạn đồng” làm vua xứ Đồng, cớ sao chú Thác lại nhất định chỉ gom bán kẽm? Lão giãi bày như vầy:

“Cái gì nhiều thì người ta tham, cái gì hiếm thì người ta quý, cái gì vừa vừa thì người ta nhàm. Ta trước giờ chỉ thích đồ quý vì không có nhiều để tham cũng không quá vừa phải để nhàm, cứ vậy làm mãi mà không thấy chán!”

Tuy rằng Vương Vi chẳng thể thông cảm với ý kiến của chú Thác nhưng y phải công nhận sự kiên trì của lão với con đường bản thân lựa chọn, vì dù kẽm vẫn là mặt hàng có nhu cầu song gần như đứng chót bảng phế liệu do thành phẩm chứa kẽm quá ít, chú Thác tiêu tốn rất nhiều thời gian để đi lại khắp nơi gom góp loại phế liệu này nhưng lão chọn thành Đồng Nham làm “điểm tập kết” mà địa chỉ cụ thể, là phòng ba mươi ba trên tầng ba của căn nhà duy nhất có ba tầng ở toà thành này: Hương Lâu. Hương Lâu không phải quán rượu như quán của lão Ngũ mà là khách sạn cho thuê phòng dài hạn nhưng không bao ăn, dù cũng có bán điểm tâm vào mỗi sáng dưới tầng trệt với giá chát hơn cả vỏ cau già, ngay khách ruột kiểu chú Thác còn phải lắc đầu bỏ qua bữa thực đơn bốn món ba mươi đồng của khách sạn. Nhờ vậy Vương Vi mới biết một góc mía hấp mà y được A Túa mời ăn vào cái ngày đầu tiên bỡ ngỡ đến đây thực là một món gia hào[3], bốn đồng đó đủ mua gạo ăn hai tháng cho một người dù gạo ở đây không dẻo ngon như vùng Chài.

Mía được trồng trên khắp nước Ngang là loại thân cao dong dỏng, không bì được độ ngọt nước với giống mía thân mập tròn lẳn của hai quốc gia láng giềng song mía cao được cái ít bệnh, dễ trồng và phù hợp với thổ nhưỡng bản quốc, năng suất cũng đồng đều hiếm khi mất mùa. Dân trồng mía đa phần làm nông hỗn hợp nên loại đường nấu từ mía vốn có giá khá cao, người nghèo ăn cơm với đường kì thực là thứ đường than tức phần cặn dưới đáy mẻ đường: đun chảy đường than với cơm nguội thành hỗn hợp sệt rồi ăn kèm cơm mới nấu, chính là cái mà A Ba gọi là “ăn cơm với đường”. A Ba ăn cơm với đường rất thường xuyên, còn Vương Vi lâu lâu mới hỏi lại hỏi trúng ngay đối tượng chuyên ăn cơm với đường…

Nước Ngang cũng có mấy điều thú vị dẫu mót ra mới biết:

Làm nguyên sĩ thì cứ hất mặt lên trời,

Không phải nguyên sĩ thì chỉ được biết đến nguyên suý,

Chữ "nguyên" không được dùng riêng,

“Tu nguyên” không được nhắc tới…

Bốn câu trên nối làm vòng tròn, câu trước tiếp câu sau, tạo thành luật bất thành văn từ ngoại ô vô thành thị, từ thứ dân lẫn thượng quan, từ nước ngang sang xóm giềng, tựu trung đều vì bọn họ sợ người tu nguyên. Những vấn đề nhạy cảm thế này trừ A Lục thì chẳng ai dám hé răng nói thẳng, đến gã ta cũng phải mượn say lấy gan mà trút lời, gã bất mãn cái triều đình mà gã cho là “thấy khó vội lui”, gã bực bội những kẻ ngồi trên đầu trên cổ lê dân nhưng khom lưng khuỵ gối với hàng quyền quý, gã căm ghét xã hội toàn là mắt điếc tai ngơ trước bao nhiêu thói tệ lộng hành, gã từng viết sớ dâng vua nhưng lại bị nội thị gạt đi, gã đốt bỏ thư trai treo ấn từ quan của mình để chọc tức tất cả hàng ngũ đồng liêu, gã đi lượm đồng nát không phải để mưu sinh mà là để rứt hận… Mấy bận gã bí tỉ là đám bạn từ A Túa tới chú Thác đồng lòng bỏ chạy trước, Mắn ráng trụ lại thêm chút nữa cũng vội cáo từ, chỉ mỗi A Ba giờ thêm Cực Đồng là chịu ngồi rửa tai nghe gã nhai suốt mấy canh[4] liền. A Ba có lần thốt riêng với Vương Vi thế này:

“Chắc cậu cho rằng tôi thuộc kiểu ưa nhiều chuyện, nhưng mà con người ta ai cũng có bức xúc trong lòng, không làm cho được thì ảo não, không nói ra được thì sanh bệnh, đã dám nói mà không dám làm thì cấm họ nói làm gì? Tôi thì tôi chẳng hiểu mấy lời của A Lục, dù sao cậu ta cũng là dân có ăn học chứ tôi còn không biết mặt chữ, tên của tôi có nghĩa là ‘cơm cháy’ cũng nhờ cậu ta chỉ tôi mới biết, xưa giờ tôi cứ tưởng tên mình có nghĩa là ‘leo trèo’ vì nhiều người cũng tưởng thế, thành thử không có A Lục nhắc thì tôi vẫn còn bị viết sai tên! Vậy đó, cậu ta buồn muốn kể lể thì tôi ngồi nghe, nghe rồi cũng quên hết, chí ít tôi thấy người ta đã cô độc còn bị bỏ rơi thì tôi không chịu được!”

Gã hẵng bảo thêm rằng:

“Ai chê tôi bao đồng thì tôi cũng chịu, tính tôi nó thế, miễn là không trái lòng mình thì cứ thoải mái thôi, làm trái lòng mình sẽ khổ tâm lắm, giống như cố tình mặc áo trái vậy, dù người ta không phát hiện thì mình cũng cảm thấy hổ thẹn trong lòng!”

A Ba luôn mặc áo màu đen may hai lớp, phần dây buộc thì nằm trong đai lưng vải, vậy nên gã bảo gã mặc áo trái chẳng sợ bị nhìn ra là có cơ sở, cách duy nhất để phân biệt bằng mắt là thử tìm miếng nẹp cổ, nhưng cái miếng ấy cũng màu đen mà lại mảnh nữa nên trừ phi soi kĩ mới thấy. Về chuyện tên họ thì chắc A Lục có họ vì người nước Ngang có sử dụng họ trong tên, thấy Vương Vi biết chữ gã cũng khoái lắm, gã tiết lộ tên huý của gã là chữ “lục” trong “sĩ khả lục bất khả nhục”[5] nhưng gã sợ cái tên ấy có sát khí nên tự đặt tên hiệu là chữ khác nhưng trùng âm “lục”. Còn nguyên chữ “a” vốn chỉ cái dốc núi do tích xưa kể rằng thuỷ tổ người nước Ngang ra đời trên dốc núi nên hàng hậu duệ hay lấy chữ này kèm vào tên, hơn nữa chữ “a” rất dễ phát âm lại cũng dễ nhớ, vì cớ đây mà người ở đông ngũ bộ châu hễ thấy ai lấy chữ “A” làm đầu tên gọi liền cho đối phương là người nước Ngang, dẫu rằng ở nhiều quốc gia khác thì chữ “a” trong tên chẳng phải hiếm.

Trường hợp chọn tên hiệu trùng âm tên huý như A Lục cũng không phải hi hữu, bàn đâu xa, trong nhóm bạn mới của Vương Vi có A Túa là một ví dụ, bận kia y thấy gã kí tên vào một hoá đơn gạo với chữ “Túa” lạ hoắc, sau gã giải thích là tên huý của gã hay bị đọc nhầm thành âm “thùa” nên gã kí chữ này cho chắc, đã bị đặt biệt danh “Tủa” thì thôi chứ cả tên cúng cơm của mình cũng thành tên khác trong miệng người ta thì oan uổng quá! Gã tự nhận mình không có họ, giống chú Thác và Mắn, vậy nên gã tò mò Cực Đồng là gồm họ hay tên và được giải đáp là toàn tên không họ.

Tất nhiên Vương Vi biết họ và tên của mình viết ra sao, cái tên của y không phải do cha mẹ đặt mà do một người lạ đặt; “vi” mang nghĩa đơn giản là “làm”, muốn làm gì cũng đều thành được cả!

***
LỀ
A Ba 阿 爬 (âm Hán)
A Lục 阿 勠 (âm Hán)
A 阿 (âm Hán) Túa 逎 (âm Nôm)
*
Khách sạn Hương Lâu 客 棧 香 樓 (âm Hán)
Phủ Thiện Lí 府 繕 理 (âm Hán)

****
CHÚ THÍCH
[1] Loại chảo sâu có hai quai, đáy tròn và bằng phẳng, thường làm bằng đồng, gọi là cái xanh 丐𥑥.
[2] Dụng cụ đong gạo hình vuông, đóng bằng gỗ, chứa được khoảng mười kí (kg) gạo một lần đong, gọi là cái ang 丐盎.
[3] Ngon, tốt là gia 嘉, thức ăn là hào 餚. Gia hào 嘉餚 nghĩa là đồ ăn ngon, mĩ vị.
[4] Trong một đêm tính từ bảy giờ tối hôm nay đến năm giờ sáng hôm sau, được chia làm năm khoảng thời gian, mỗi khoảng như vậy kéo dài hai giờ (120 phút) gọi là một canh 更.
[5] Kẻ sĩ (có phẩm hạnh) thà chịu bị giết phanh thây chứ không chịu khuất phục = Sĩ khả lục bất khả nhục 士可戮不可辱. Hàm nghĩa coi trọng khí tiết hơn cả tính mạng.