Vương Vi cảnh giác trong lòng, bàn lực tay thì A Hường chỉ hơn đám con gái đôi chút, hầu như áp lực mà gã đẩy qua y là thứ gì đó thuộc về cái quạt kia. Về cơ bản, ở trình độ của đối phương thì gã chẳng thể điều khiển được pháp bảo này, nhưng rõ ràng nó đang nghe theo gã. Nguyên nhân nằm ở đâu? Vương Vi vừa phòng thủ, vừa quan sát, vừa suy nghĩ.
Ngược lại, A Hường chẳng cảm thấy gì cả, càng khiến gã lo lắng, bởi sư phụ từng bảo nếu giao chiến với đối thủ mà tựa hồ đánh vào hư không thì khả năng cấp bậc tu luyện của y phải hơn bản thân ít nhất hai tiểu cảnh giới. Song biểu hiện bề ngoài của tên cắt tóc quả táo này chẳng từa tựa cao thủ chút nào, dẫu sức lực rất giống một lực sĩ sắp đạt đỉnh.
Trên con đường tu nguyên, tại tầng lớp lực sĩ hay tu lí giả gồm có bốn tiểu cảnh giới, bắt đầu từ: vận nguyên, lẫm dư, khí cao, tuyệt hàn; với tu lí giả lần lượt là vận nguyên, sơ thịnh, khí tố, hợp oa. Công pháp chủ yếu của tầng này đều nhằm củng cố và bồi đắp nguyên uyên, làm nền móng cho việc sử dụng nguyên năng tuỳ ý về sau, giả sử muốn dùng nguyên năng sớm cũng không phải không thể nhưng do nội lực chưa vững chắc mà đã vội tiêu hao sẽ rất mau cạn kiệt, cố quá sức còn khiến nguyên uyên bị thất thoát không thể tái hồi phục tất phải vong mạng. Điểm khác biệt giữa lực sĩ và tu lí giả nằm ở giai đoạn “khí cao” và “khí tố”: lực sĩ tài bồi nguyên uyên không ngừng tương tự việc rót đầy “chiếc bình”, quá nhiều sẽ tràn vì thế cần hớt bớt phần dư ấy, chính là giai đoạn “tuyệt hàn”, do nguyên năng tăng cường quá cao tựa việc cảm sốt cực độ thì chuyển sang lạnh; tu lí giả thì ngược lại, cách củng cố nguyên uyên của họ giống tia khói bốc lên trong ống khói tức ngược dòng, quá trình này có thể lâu gấp đôi, gấp ba thậm chí hơn nữa so với lực sĩ, đến giai đoạn nào đó khi đã đi hết chiều dài “ống khói” thì sẽ thoát khỏi giới hạn như khói bốc lên trời, hợp với khí trời nên gọi là “hợp oa”.
Nguỵ sư phụ nhắc nhở gã chớ mống tâm đi con đường tu lí vì tuy có lợi về sau nhưng khởi đầu gian nan vô cùng, con đường này được mở ra cho những kẻ được xem là không đủ tố chất để tu nguyên mà A Hường chẳng thuộc hạng ấy, hẵng cứ theo lề lối bình thường mà tiến, đâu cần tỏ ra đặc dị làm gì!
Do gã mới nhập môn ít lâu nên sư phụ chưa bày vẽ quá nhiều, dựa vào mấy lời trên gã liền nghĩ rằng tu lí giả toàn đám ngốc cả, quả là:
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng, Cầm bằng làm mướn mướn không công.[4]
Song thằng nhóc tóc quả táo kia thực sự là tu lí giả? Tuy có ý chê bai nhưng sư phụ A Hường cũng nêu vài ưu điểm của con đường hiếm muộn kia: rất mạnh về “phòng ngự” và “khoá”, cầu thắng một tu lí giả ngay trên địa bàn của y là chuyện vô vọng nhất trên đời. Tất nhiên cũng phải kể đến điểm yếu của đám “phi lực sĩ” đó: đánh trực diện không mạnh, tốc độ chậm chạp đồng thời ít đầu tư vào pháp bảo phòng thân, bởi tu lí giả thường dốc sức cho công pháp cùng phương thuật hơn.
Đôi bên thiếu niên kẻ dưới người trên nhướng mày nhìn nhau, ngoài lề thì cô bé giao gạo đã lồm cồm bò dậy, mặt hơi đỏ hồng chẳng biết là xấu hổ do đâm trượt hay bị va đau chỗ nào, nhưng ánh mắt của Hương Xuân Lâu đang khẳng định: Ta sẽ không bỏ cuộc đâu!
“Các ngươi đi giao gạo cũng nhiều chuyện quá đi!” A Hường phe phẩy Mộc đô phiến, thân mình lơ lửng giữa không trung. “Nếu đã không cần thu tiền gạo mà muốn ngửi mùi đất thì cứ nói ra để ta giúp các ngươi thoả lòng!”
“Ngươi bay được là nhờ cái quạt đó nhỉ?” Vương Vi ngó chằm chằm chiếc lá đu đủ màu cam, thốt lời thẳng thừng.
“Thì sao?” A Hường chẳng thấy ngại chút nào. “Tu lí giả như ngươi chắc cũng nghèo kiết xác, mua không nổi pháp bảo chứ gì?”
Tu lí giả là gì? Vương Vi nghĩ.
“Hứ!” Hương Xuân Lâu khinh thường xen ngang. “Thứ mạt rệp như ngươi mới là nghèo kiến thức, xưa nay làm gì có chuyện mua pháp bảo? Chỉ có đổi hoặc được cho thôi!”
Cô bé cố kiềm lòng không nôn thốc nôn tháo, mặc dù chẳng phải lần đầu chứng kiến người chết song cơ sự này quá bất ngờ, hơn nữa nền đất ẩm càng dậy thêm lên thứ mùi mà người ta muốn quên. A Hường vẫn bình thản như chưa có gì xảy ra, tựa hồ ở đây không ai chết cả, gã tỏ vẻ chả thèm đôi co mặc dù lời lẽ thì đanh đá:
“Con nhỏ lùn này biết nhiều quá nhỉ? Mi cũng có thầy à? Vừa yếu vừa kém như thế hẳn là cùng một giuộc với thằng này hả?”
Hương Xuân Lâu mặt mày rõ giận lại không phản bác tiếng nào, A Hường liếc mấy cái xong bèn chuyển sự chú ý về lại tóc quả táo, may mà sư phụ đã dạy gã phép bay từ sớm chứ bây giờ còn đứng dưới đất là bị tên đó vật ngay, thêm con nhỏ lùn chực đánh lén nữa!
“Ngươi nuôi người trên núi à mà cần hơn năm mươi cân gạo?” Vương Vi tiết lộ kết luận của bản thân, bởi theo suy đoán của y trong căn nhà lụp xụp kia ngoài hai ông bà lão thì khó lòng chứa thêm ai nữa, huống hồ họ cũng không thể ăn nhiều đến vậy.
Mắt A Hường máy giật, sắc mặt quay về dáng vẻ hung ác ban nãy, Vương Vi mỉa mai:
“Sư phụ ngươi có tài giỏi cũng chẳng tốt lành gì, để ngươi phụ trách cái công việc bẩn thỉu này!”
Vấn đề quan trọng nhất mà họ Vương muốn biết, là ngoài cái quạt nọ ra, tên này còn có thứ gì khác? Trông qua A Hường ít trải sự đời, nội tâm viết luôn trên mặt, một lão sư phụ ma đạo lại chọn gã làm đệ tử thân truyền, e rằng cũng vì lợi dụng sự ngây thơ đó…
“Thằng khốn!” A Hường cả giận, tay siết Mộc đô phiến, chớp mắt biến mất khỏi vị trí hiện tại, lao từ trên xuống như chim cắt bắt mồi, đánh vòng cực nhanh qua phía trái đối phương…
Lá đu đủ màu cam không hề mềm mại chút nào, nó cứng bén tương tự rìa lưỡi dao cạo, chém một đường mảnh gần dưới mắt họ Vương dù y đã uốn người tránh kịp chỗ chí mạng nơi cổ, vết thương ran rát khả năng còn chứa độc. Chính lúc va chạm, A Hường thấy buốt bên má phải, đòn lao xuống này tuy bất ngờ nhưng không thể tái chiến lâu, gã lập tức phóng lên không trở lại, phun ra lòng bàn tay một đồng tiền kì lạ hình vuông lỗ vuông chưa thấy bao giờ. Hốc má phải của gã thủng một lỗ bằng đường kính của đồng tiền vuông, tên kia đã búng đồng tiền ngay tầm gần khiến gã không né được, thật sự là nhanh như chớp!
Đáng kinh ngạc ở chỗ, tên tóc quả táo dính độc “phù thiêu[5]” vẫn chưa ngắc ngỏm, kì lạ hơn nữa là ngay chỗ mép quạt tiếp xúc với da thịt đối phương bốc lên một luồng khói đen nhàn nhạt dị thường, cho người ta cảm giác ớn lạnh chẳng rõ nguyên do. Đương lúc A Hường bận động não đánh giá tình huống vừa xảy ra thì Hương Xuân Lâu đứng quan chiến cũng thấy rõ rành mạch sự việc, cô bé hơi hãi hướng nhìn Vương Vi lại dường thất vọng mà chất vấn:
“Ngươi cũng luyện ma công?”
“Thanh Minh Tâm Quyết không phải công pháp ma đạo,” Vương Vi khẳng khái trả lời, cho dù cả gầm trời này đều phản đối Ái Nhân là người chính trực, y cũng sẽ không vì thế mà hùa theo họ, số đông có thể đúng nhưng sự thật không cần sự thừa nhận từ số đông, y tiếp lời chính mình trước ánh mắt thiếu tin tưởng của bà chủ nhất. “Sự thật tự nó không nói dối!”
“Nếu ngươi không luyện diệu công sao lại có diệu khí?”
A Hường cũng khó chấp nhận lời của tóc quả táo, Nguỵ sư phụ từng dạy dỗ gã nếu một nguyên sĩ kết hợp với ngoại vật bất kể có phải pháp bảo do bản thân luyện ra hay không, cũng sẽ gây lây nhiễm đối với nguyên năng hiện có, trầm trọng hơn là chính nguyên uyên cội nguồn của mình, bấy giờ hơi thở kẻ ấy sẽ nhuốm đầy khí tức của vật đó, thậm chí bản tính cũng có thể thay đổi so với lúc đầu. Bất quá đối với diệu môn nguyên sĩ mà nói, hiện tượng lây nhiễm trên lại là một bằng chứng cho sự thành công, nhưng chẳng dễ đạt được, nếu mau chóng đạt được đó cũng là thiên tài hiếm có.
Ngộ cái là người phe ma đạo luôn tự xưng mình tu “diệu môn” thuộc “diệu phái”, cười phe đối lập là “hão môn, phụ đạo, nguỵ phái”, là nguỵ quân tử tu nguyên. Ngược lại chính đạo cũng phê phán họ rằng “bàng môn, ma đạo, tả phái”, tự cho phe mình là “chính môn, chính đạo, chính phái”, là kẻ sĩ tu nguyên. Mỗi cái tên thôi cũng thể hiện thái độ rất rõ ràng, công pháp tu luyện càng tách bạch nhau, dựa trên nhiều tiêu chí để phân biệt.
“Diệu khí là gì?” Vương Vi hỏi gã.
“Là cái này,” A Hường nghiêng Mộc đô phiến dưới ánh trăng, luồng khói đen trông yếu ớt mỏng tựa tơ nhện mới giăng, song dai dẳng chẳng chịu tan biến.
Hương Xuân Lâu cau mày, căng thẳng chờ đợi “đồng đội” duy nhất giải thích gì đó, giả y cũng dạng “đồng đạo” của A Hường thì chẳng phải cô sẽ bỏ mạng vô nghĩa ở đây sao?
Riêng Vương Vi lặng lẽ ngó ngàng thứ mà A Hường chìa cho y xem, y biết nó, bởi y thường tu luyện chung với Ái Nhân đồng thời chịu ảnh hưởng từ thi khí trên người huynh ấy, tà vật trên đời này có rất nhiều lại thường hung hãn nhưng chúng đều sợ hãi trước Ái Nhân, gọi là núi cao còn có núi cao hơn. Họ Vương nhớ đại huynh của mình từng nói: “Những người không tin vào ác báo một vì họ sống không đủ lâu để chứng kiến, hai vì họ chưa gặp kẻ ác của kẻ ác.”
Cuối cùng y mở miệng:
“Ngươi gọi nó là gì cũng được, ta không có ý kiến gì cả.”
“Đó là ma khí, ngươi không thể cứ vác nó trên người rồi bảo là không có gì cả!”
“Có sao đâu?” Vương Vi tỉnh bơ. “Không phải hoa nào đẹp cũng có hương thơm, không phải hoa nào thơm thì trông cũng đẹp.”
Đây là y đang tự bào chữa hả? Hương Xuân Lâu cạn lời để đáp nhưng nôn nao trong dạ, thà rằng y xác nhận bản thân thuộc ma đạo hoặc từng luyện ma công thì cô còn yên lòng hơn, giờ trông y nửa chính nửa tà biết chừng trở mặt lúc nào, làm sao ứng phó?
“Còn đánh nữa thì ngươi sẽ chết đấy, cái lá đó không giúp ngươi giữ mạng được lâu đâu,” họ Vương chẳng hề cao giọng, ngữ điệu cũng lạnh lẽo. “Chúng ta không quản chuyện của ngươi nhưng tiền gạo thì phải trả, cả thảy một trăm sáu mươi tám đồng!”
A Hường sớm lau vết máu trên mặt, lỗ thủng không quá đáng ngại, dùng ít bột trị kim sang của sư phụ bôi một giờ[6] là khỏi, gã cũng chả sợ phải đánh lâu với tóc quả táo chút nào, bởi gã nghĩ: Ta biết bay đấy đồ đi bộ! Không tin trong vòng trăm hiệp mà ngươi né hết được Mộc đô phiến của ta, huống hồ muốn chém chết con bé kia cũng chẳng khó, chờ sư phụ ta về xem người có băm vằm ngươi ra không!
Mặc dù diệu khí của đối phương dường lợi hại, Mộc đô phiến cũng không tự giải được nhưng ngoài biết bám dính ra thì chẳng thấy hiệu quả gì khác, phỏng do y luyện thứ Thanh Quyết gì đó bị rò rỉ mà thôi. Vả lại A Long sắp không ổn rồi, gã cần mang gạo quay về gấp để chế “tinh mễ” trị thương cho bạn, thêm con dê cái nọ lúc nào cũng nhoèn nhoẹt chẳng đáng tin chút nào!
A Hường móc túi ném tiền xuống đất, siết quạt lượn vòng xuống chỗ mớ bao gạo đã bị Mắn hất hết xuống nhằm giúp xe nhẹ đi chạy nhanh hơn, thu lấy vào túi ba gang của mình, liếc hai tên giao gạo lắm chuyện một cái rồi bay về hướng núi Chân Dương, mất tăm tích.
“Ngươi làm gì vậy?” Hương Xuân Lâu bất lực đứng ngó tên “đồng đội” đang chăm chỉ nhặt tiền rơi trên đất, nhặt xong còn đếm lấy đếm để.
Vương Vi tổng kết:
“Hai trăm đồng, tên đó đưa dư ba mươi hai đồng, tính sao đây bà chủ?”
Sau đó giải thích thêm:
“Cần thối lại không?”
Hương Xuân Lâu tuy trong lòng vẫn e dè y là ma đạo hoặc tàn dư ma đạo nhưng nghe xong mấy lời trên, hầy…
“Tính cái đầu ngươi!” Bà chủ nhất giậm chân, thầm mắng y là quỷ lậm tiền, hất tay chỉ về phía dãy hàng rào đã bị bung xới tơi tả. “Hai bác đó bị hắn hại chết rồi, ngươi không lo bắt hung thủ lại đi lo thối tiền cho hắn!”
Vương Vi ngạc nhiên, hỏi lại:
“Thế sao hồi nãy bà chủ không bắt hắn?”
Hương Xuân Lâu nghẹn họng, nhớ lại cú đâm hụt kia tự dưng cay mắt, ừ thì cô bất tài thật đấy, cho dù là sự an nguy của dân chúng hay sự yên ổn của gia đình mình đều chẳng nắm nổi trong tay… Vương Vi tiến tới trước mặt cô bé thấp người, dùng ngón cái miết bay giọt sương dưới đuôi mắt của cô.
“Nữ nhi thì không được khóc!”
“Tại sao chứ?” Hương Xuân Lâu khịt khịt mũi, ngẩng nhìn tên chính tà bất phân trước mặt, lẽ nào giờ còn có lệ cấm tiết “mồ hôi mắt” nữa?
“Bởi vì sẽ khiến nam nhi đau lòng.”
Họ Vương hồi đáp, lời này là ba Vương dạy cho y: đã làm đàn ông thì không được khiến phụ nữ khóc, nhất là nữ quyến trong nhà.
“Cha ta nói lòng nam nhi như sắt như đá, làm gì có đau lòng?” Hương Xuân Lâu hiểu “đau lòng” là “mềm lòng”, đàn ông thì phải cứng rắn chứ sao mà mềm lòng được.
Bộ ông ba của cô từ đá nẻ chui ra à? Vương Vi chẳng đồng tình, nói:
“Sắt rèn được, đá đẽo được, đều là người sao có thể không đau lòng được?”
Hình như hai người đối đáp trượt lướt về mặt ý nghĩa nhưng chí ít bầu không khí đề phòng giữa đôi bên đã giảm tí chút, Hương Xuân Lâu đưa tay áo quẹt mũi, giọng kiên định:
“Ta phải bắt hắn vì tội sát nhân!”
Nhớ lại lời mà cô bé nói với bà chủ nhì, xem ra thân phận của bà chủ nhất hẳn có liên quan tới quận môn hoặc trên nữa là triều đình, Vương Vi hỏi:
“Cha cô là quan quận Vũ Hoà Quân?”
“Không phải!” Cô bé lắc đầu.
“Một mình cô lấy gì bắt hắn, chưa kể chắc chắn hắn còn có đồng minh! Mấy người A Ba kia muốn chạy về tới quận môn cũng phải mất hai, ba ngày, cô tính ở đây chờ quan quận tới cứu viện sao?”
Hương Xuân Lâu chưa đáp, Vương Vi phân tích thêm:
“Sư phụ của A Hường có thể không quá lợi hại, nếu không đã chẳng chọn chỗ héo lánh này để giấu đệ tử, hơn nữa Thiên Mộc Đô mà cô nói vốn ở đại châu phía bắc sao tên sư phụ kia lại bỏ bản doanh tông môn mà chạy xuống đây? Quá nửa là lời không thật!”
“Cái quạt đó là pháp bảo thuộc tố phong.” Hương Xuân Lâu nêu bằng chứng. “Dù hắn không thể hiện nhiều nhưng công pháp thuộc tố phong thường khởi điểm từ tiềm thuật[7], bởi vậy hắn mới dựa vào pháp bảo mà bay được!”
“Tiềm thuật là gì?” Vương Vi tiếp tục muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học.
“Sao ngươi cái gì cũng không biết thế? Rốt cuộc Thanh Minh Tâm Quyết gì đó là do ai dạy cho ngươi?”
“Là Ái Nhân.”
“Tức là người yêu? Ngươi có tình nhân hả?”
“Không phải, người mà mình yêu đâu chỉ có mỗi tình nhân!” Vương Vi cau mày vì lối suy luận kì lạ của bà chủ nhất.
“Nghĩa là sao?”
“Chẳng trăng sao gì cả, Thanh Minh Tâm Quyết là một công pháp vận nguyên cơ bản, chỉ thế thôi!”
Hương Xuân Lâu dẩu môi không phục, cực kì nghi ngờ lập trường của đối phương dù chưa rõ thật giả thế nào. Sau rốt không nhịn được, đặt vấn đề:
“Ngươi cho là mình không luyện ma công, vậy thứ khí màu đen đó là gì?”
“Khí đó không phải của ta, cô biết cái lò xông trầm chứ?”
“Biết!”
Nhà ta có đầy! Hương Xuân Lâu tưởng y sắp đánh trống lảng thì y tiếp luôn:
“Cái lò mới mua chưa từng đốt trầm thì có mùi trầm không?”
“Nếu nó cũng bằng gỗ trầm thì có!”
Vương Vi chưa từng thấy qua lò xông trầm nào bằng gỗ bao giờ, thường gặp nhất là loại bằng đồng hoặc đất nung, coi như mở mang kiến thức đi, mà sao lò bằng gỗ bị đốt lại không cháy nhỉ? Nhưng y đâu dễ lạc đề.
“Cái lò đó không phải bằng trầm, nó bằng đồng.”
“Thế thì không có!”
“Nhưng đốt trầm lâu thì sẽ có, đúng không?”
“Sao ngươi nói chuyện dài dòng quá vậy? Tóm lại là ý gì?”
“Thì cái lò giống như ta, còn trầm giống như khí đen đó, cô hiểu chưa?”
“Thế sao ngươi lại xông khí đen?”
“Đó là bị ảnh hưởng!”
“Chỗ ngươi tu luyện có khí đen?” Hương Xuân Lâu bắt đầu vỡ vạc rồi.
“Ờ.”
“Sao không luyện chỗ khác?”
“Chỗ đó là quê nhà của ta!”
“Quê ngươi ở châu Nam Quế à? Vậy ra ngươi rời quê là để đi kiếm ‘đồ nghề’? Sao không xin của sư phụ ngươi?”
Bắt đầu lan man rồi, Vương Vi chỉnh:
“Thứ nhất, đại huynh là người truyền cho ta Thanh Minh Tâm Quyết; thứ hai, ta không đi kiếm ‘đồ nghề’ mà là đi học nghề; thứ ba, ta không có sư phụ, chỉ có thầy dạy nghề thôi!”
“Nhưng ngươi muốn làm nguyên sĩ, học nghề của người thường để chi?”
“Chẳng phải từng nói với cô rồi à? Cái gì cũng phải học cả, muốn học là học, kiến thức là kiến thức, cần chi dông dài lí do này nọ, tầm nhìn của chúng ta khác nhau có nói ra cũng chẳng thông cảm được đâu!”
Hương Xuân Lâu cãi:
“Ý ngươi là ta nhìn thấp?”
Vương Vi đáp khéo:
“Cô thừa biết rằng ta sẽ không thể cao bằng cô!”
Thật ra đôi lúc nói thẳng lại khiến người nghe dễ chịu hơn nhiều… Hương Xuân Lâu ấm ức hồng hào cả mặt, họ Vương chẳng lấy làm bận lòng việc ấy, quay về vấn đề cần làm rõ:
“Tiềm thuật là gì?”
Cô bé trước bị xoa đầu thì không tính, giờ bị chê lùn cũng không tính, nhưng chắc chắn có việc phải tính cho rạch ròi:
“Ngươi thực sự không phải ma đạo?”
Vương Vi trả lời dứt khoát:
“Trên đời này ngoài tín đạo[8] ra thì chẳng có đạo nào đáng theo cả!”
Đấy là ba dạy cho y: “Người không có lòng thành thì trăm việc đều làm không xong!” Bất quá họ Vương cũng chẳng kể lể đạo nhà mình phải thế này thế kia, y hiểu bao nhiêu thực hành bấy nhiêu, giải thích nhiều làm gì!
“Song thân của ngươi còn không?” Hương Xuân Lâu hỏi sang chuyện khác.
“Đều qua đời rồi.”
“Ngươi rời nhà đi, để mộ cha mẹ cho ai trông coi?”
“Quê ta mọi người đều theo tục hoả táng hết, ba mẹ ta muốn được rải cốt ngoài cửa biển cho mát nên ta làm y vậy!”
Bởi tang tục trên đất xứ Đồng thường sẽ mai táng, trừ khi nghèo quá thì mới hoả táng rồi giữ tro cốt trong bình kín đặt cạnh bàn thờ gia tiên để hương hoả tưởng nhớ, đây là vấn đề quan niệm khác nhau giữa từng vùng. Hương Xuân Lâu không nghĩ tới sao lại có người thảm vậy, ngay cả đất chôn cũng không có, rõ ràng cha mẹ y sợ con cái tốn kém nên mới di chúc như thế!
“Ngoài ngươi ra còn anh chị em nào nữa không?”
“Không, ta là con một.”
“Thế còn đại huynh của ngươi là kết nghĩa à?”
“Ừ.”
Vương Vi cảm thấy tối nay bản thân hơi lắm lời rồi, song trực giác mách bảo y rằng sự kiện tình cờ gặp A Hường sẽ không kết thúc đơn giản bằng cách đẩy trách nhiệm cho bà chủ nhất, y cũng chẳng tin sau lưng A Hường chỉ có một lão sư phụ như chính gã tự trỏ ra, tóm lại phải xem cô bé này lận lưng những gì đã. Họ Vương giả tảng “không quan tâm”, bảo cô bé:
“Cô hỏi nãy giờ rồi đấy, chưa tin tưởng ta à? Cũng bình thường nhỉ, dù sao chúng ta vừa mới biết nhau hôm nay mà ta cũng không đi lượm đồng ở quận Phong Hoá! Tiền gạo đây, phần còn lại cô tự giải quyết đi nhé, ta chỉ giúp A Ba đọc đơn giao hàng thôi, không dính líu miếng nào tới hội buôn của cô hay khách hàng của hội đâu!”
Thấy Vương Vi toan bỏ đi sau khi nhét túi tiền nặng trịch vào tay mình, Hương Xuân Lâu gọi với theo:
“Nam nhi chân cứng đá mềm còn ngươi là nước chảy đá mòn hay sao?”
Họ Vương dừng bước, quay đầu đáp:
“Ta là người thấy lợi thì nghĩ sinh lời, chứ có lợi mà không có răng thì có tác dụng gì?”
“Ngươi không có nghĩa khí!” Hương Xuân Lâu kêu lên, rõ ràng là phê bình.
Vương Vi chẳng nhịn, trả lời:
“Nghĩa khí phải có lí trí, lí trí cũng phải dựa vào điều đáng tin; cô nghĩ ta sẽ bắt tay với người không tín nhiệm mình sao? Cô cũng làm chủ hội buôn, tất hiểu chữ ‘tín’ quan trọng thế nào trong hợp đồng làm ăn chứ!”
“Ngươi mười bốn tuổi thật đấy à?” Hương Xuân Lâu cố gắng nhủ lòng không bỏ cuộc; đối phương bị mỏ nhọn, cô cảm thấy mình đang cần cái bung xung!
“Thật!” Vương Vi kiên nhẫn gật đầu.
“Ta họ Hoành Ti.” Cô bé nhích về trước, sau khi tự xưng tính[9] thì cũng cởi bỏ lớp phòng thủ bên ngoài: ánh mắt nhìn thẳng nghiêm trang, thần thái cũng xoay chuyển theo mặc dù không đổi vẻ kiên định thuở ban đầu. “Là con gái út của Hắc Vĩnh Đồng nguyên suý, ta có hai anh trai là Mĩ Ân Điền vương và Bạc Lân Thần vương.”
Cô bé lật tấm thẻ gỗ đang đeo ở cổ lên: có một miếng nẹp giữ lá bùa bình an bên dưới mà chỉ người trong hoàng thất mới sở hữu. Bùa này hình dáng đặc trưng, vốn do đích thân hoàng đế ngự ban, việc làm giả nó rất nghiêm trọng, kẻ phạm tội có thể phải lĩnh án tử hoặc chịu lưu đày biệt xứ. Đính nó chung với tấm thẻ khắc tên hội buôn của mình, xem ra dẫu rằng tuổi nhỏ nhưng công chúa làm việc rất có tâm huyết cùng ý chí nghiêm túc.
Vương Vi cũng biết quốc tính của Hoành quốc, nghĩa là họ dòng chính trong hoàng thất, là họ Hoành Ti, họ Hoành Ti với họ Hoàng Y của cựu quốc Hoàng Kiển liên hôn nhiều đời, ngay cả con cháu dòng thứ dưới bệ vàng cũng đa phần mang huyết thống Hoàng Kiển. Sau khi Hoàng Kiển xảy ra quốc biến thì một phần hậu duệ hoàng thất của họ vượt biển sang nhà thông gia nương náu, vì thế tuy sống lưu vong mà không đứt đoạn mạch thống.
Nước Hoàng Kiển nằm ở mũi tây bắc của châu Nam Quế, vốn có tên là nước Kén Óng, nay đã diệt quốc, chỉ còn phần nền cũ của đại triều là đất Mộc La hiện nằm trong lãnh phận của Nghiễn quốc. Nước Nghiễn cách nước Ngỗng hai quốc gia ven biển và ba nước khác trong nội địa, Nghiễn quốc nổi tiếng về nghề làm mực thỏi và nghiên mài như chính quốc hiệu đã thể hiện rõ.
Còn về hiệu của vua nước Hoành thì có hai phần: đế hiệu đồng thời là triều hiệu do chính người đăng cơ tự đặt, theo tục truyền thì hoàng đế nước Ngang thường chọn địa danh trong nước làm hiệu, như Hắc Vĩnh sơn là ngọn núi duy nhất có thể khai thác đồng của Hoành quốc dù sản lượng rất ít; nguyên suý[10] là danh xưng chính thức dành cho vua tại nước Ngang, trong chiếu sắc từ bệ vàng vua cũng tự xưng là “bổn suý” và mọi văn bản triều đình đều dùng hiệu này cả, dẫu rằng thứ dân hoặc sứ giả nước khác có thể gọi vua là hoàng đế lúc thường đàm. Và hoàng hậu có danh xưng chính thức là thái phi, tương tự sự phổ biến của cách gọi hoàng đế trong dân gian: “thái phi” trong miệng dân chúng thường là “hoàng hậu”. A Lục bảo “nguyên suý” với “thái phi” đều nằm trong danh mục “cải cách mới” của triều đình, chung mâm vụ đổi quốc hiệu từ “Ngang” sang “Hoành”, có điều người trên đổi thôi chứ người dưới vẫn quen thói cũ, thành thử trong ngoài triều xưng hô chẳng khớp nhau, nó cứ loạn thế nào ấy!
Hiệu của các hoàng tử, công chúa Hoành quốc đều do vua ban ngay từ thuở lọt lòng, hầu như không đổi ngoại trừ trữ quân[11] lúc lên ngôi, thậm chí công chúa có hạ cố gả cho thường dân thì vẫn sẽ giữ hiệu ấy suốt đời. Đồng thời lệ lấy địa danh làm hiệu áp dụng luôn với các thân vương được thụ phong, như Mĩ Ân là tên đất xây hành cung nơi hoàng hậu hạ sinh trưởng hoàng tử, còn nhị hoàng tử nay là Bạc Lân Thần vương thì được sinh trong cung Nguyệt Hạ lúc gần cuối đêm ánh trăng mờ nhạt mà có hiệu này.
Một số quốc gia rất kiêng kị tên người trong hoàng tộc, gọi là “tị huý” hay “kiêng huý”, thậm chí địa danh trong nước vô tình trùng với tên hoàng thất thì đổi cả tên địa danh! Nhưng Hoành quốc lại khác, dẫu vậy việc công khai nhắc đến tên huý của vua hay con cái của ngài vẫn bị cấm, do đó Vương Vi không biết tên công chúa lẫn hiệu của cô.
Như chủ trương của y, không biết thì phải hỏi:
“Tên của cô là gì?”
“Ta là công chúa!”
“Tên cô là Công Chúa?”
“Là Thuỳ Vũ Xuân, đồ vô lễ!”
Công chúa có phong hiệu nhưng chỉ được ban cung phủ chứ không được ban đất đai bên ngoài, cho nên tên cung phủ chính là hiệu của công chúa đó. Cung Thuỳ Vũ nằm trong phạm vi hoàng đô gần sông Thuỳ Vũ, đê sông trồng rất nhiều giống liễu đuôi sóc trổ hoa vàng, là thắng cảnh nổi tiếng tại quận đô. Bản thân Thuỳ Vũ Xuân không thích cung phủ của mình lắm, cô cũng chẳng thấy hoa liễu vàng có gì đẹp, chỉ vì mẫu phi sau khi đi dạo ngoài đê Thuỳ Vũ về thì sinh ra cô nên phụ hoàng đặt cho hiệu ấy, đành phải chịu thôi. Mặc dù danh xưng chính thức của vua đã đổi từ “hoàng đế” sang “nguyên suý”, song một số cách xưng hô giữa hoàng thất với nhau vẫn giữ nguyên, như “phụ hoàng”, “hoàng thúc”... Thuỳ Vũ Xuân cũng không tưởng nổi, trong mắt tên chính tà bất phân này, “công chúa” chẳng có tí cân nặng nào cả!
“Cô là công chúa của dân nước Hoành chứ có phải công chúa của dân nước ta đâu?” Vương Vi vốn nề hà gì chuyện vô lễ với chả hữu lễ, huống hồ việc thân thế hiện giờ không thể công khai, kẻ địch mà biết công chúa bổn quốc đang ở đây thì còn gay go hơn nữa, thà kêu thiên kim cho nó lành!
Hương Xuân Lâu cũng hiểu tình hình, chỉ không ngờ tên già đầu hơn già tuổi này quá mức tự nhiên, ngờ rằng từ “khách sáo” là hoàn toàn khách sáo đối với y!
“Cô thích ăn gì?” Đột nhiên y hỏi chuyện ít liên quan.
“Bánh cốm.” Hương Xuân Lâu lại nói. “Giờ thì sao? Chúng ta biết thân phận nhau rồi có tác dụng gì?”
“Bảo bối mà cô có chắc hẳn cũng phải là đồ trấn quốc chứ nhỉ?” Họ Vương nhất định từ chối “khách sáo”, trực tiếp nhập đề. “Cái quạt của tên đó làm từ vật thuộc tố kim, có chứa độc, ta không tin hắn có thể tuỳ ý sử dụng mà không mất mát gì; tiềm thuật như ta hiểu là mượn lực để bay, thế thì cần dựa vào nguyên năng của chủ, như vậy số lần bay của tên Hường đó phải có giới hạn!”
“Ngươi đúng là không hiểu gì về tiềm thuật!” Hương Xuân Lâu bức xúc thật sự, trời sắp sáng rồi còn phải phổ cập kiến thức cho tên này, lại kinh ngạc nhận ra vết thương trên mặt y chuyển đen, tựa hồ muốn thối rữa. “Cái… ngươi không thấy đau à?”
“Độc này có tính phân huỷ cũng gây bỏng, cách thức hoạt động là ăn mòn nguyên năng, chỉ dính một xíu thôi, tạm thời chưa nghiêm trọng!” Tất nhiên qua vài canh nữa có thể sẽ thành nghiêm trọng!
“Thế…”
Dưới ánh trăng bàng bạc, hai ông bà cụ bất hạnh đã tan vào đất tự lúc nào, họ là người thường lại già cả nên nguyên uyên vốn dĩ suy yếu, gặp phải độc này khó tránh khỏi cảnh đau lòng. Vương Vi và Hương Xuân Lâu trầm mặc một lúc, với cô bé thì bắt được A Hường về quy án mới là lấy lại lẽ công bằng cho hai đấng sinh thành của hắn, còn với họ Vương thì quốc pháp cũng không trả đủ công bằng cho người bị hại nhưng A Hường đã sớm đánh mất tương lai: tương lai của hắn sẽ là khổ đau vô tận. Nếu cái ân lớn nhất mà lại quên đi thì tất cả ân huệ đều tan biến hết!
Lớn lên giữa vùng Chài gạo thóc lẫn lộn, khiến Vương Vi hiểu được rằng tuỳ tiện nhúng tay vào việc người khác không phải hành vi hào hiệp, chỉ khi bản thân có khả năng và đó là chuyện đáng làm bởi một lí do cụ thể mới gọi là làm việc nghĩa được. Giờ y đang tự đặt câu hỏi: Ngăn chặn A Hường để làm gì? Trừ hậu hoạ, cứu lấy gã hay truy tới nguồn cơn sự việc? Trừ hậu hoạ tức tiêu diệt gã, cứu lấy gã thì lấy gì thuyết phục, còn muốn truy nguồn cơn lại cần thêm nhân lực, cái nào khả thi?
Đương khi Vương Vi chăm bẵm gẫm tìm đáp án cho mình thì Hương Xuân Lâu lặng lẽ kéo ra một cái túi thêu be bé lận dưới lớp đai lưng, túi có hai đầu gút nằm đối diện, cô bé giật nhẹ cặp gút về phía ngược nhau thì miệng túi mở ra, Hương Xuân Lâu lại lắc túi về trước một cái: từ miệng túi nhảy ra món đồ thoạt nhìn giống cái bình cổ cao nhưng có mấy tầng phù điêu rỗng nhiễu quanh, ấy là kiểu chậu cảnh tự tuần hoàn nước có tên “chậu thác đổ” mà nhà Do Bụng Bự trong thành Đồng Nham trưng cả cặp, khá đắt tiền.
“Chậu này tên là Lưu Hương Thuỷ[12], luyện từ Kim Lan từ[13], có thể ủ ra loại nước chữa liền được mọi thương thế miễn là không bị đứt lìa,” Hương Xuân Lâu vừa nói vừa kê miệng chậu sát vết rạch trên mặt Vương Vi, hơi nước bốc lên có mùi thơm ngọt thanh, vết thương lành lặn tức thì, phần độc tàn dư cũng hư hoá tan hết.
Giờ họ Vương đã có đủ cái cớ để giúp cô bé một việc, vì mẹ Vương từng nói: “Đụt mưa dưới hiên nhà ai, phải nhớ cúi chào người đó!”
*** LỀ Bạc Lân Thần vương 薄 磷 宸 王 (âm Hán) Hắc Vĩnh Đồng nguyên suý 黑 永 同 元 帥 (âm Hán) Họ 𣱆 (âm Nôm) Hoàng Y 黃 衣 (âm Hán) Họ 𣱆 (âm Nôm) Hoành Ti 橫 絲 (âm Hán) Hoành Ti Thuỳ Vũ Xuân 橫 絲 垂 舞 春 (âm Hán) Mĩ Ân Điền vương 渼 殷 鈿 王(âm Hán) * Cung Thuỳ Vũ 宮 垂 雨 (âm Hán) Hoàng Kiển quốc 橫 繭 國 (âm Hán) Đất 𡐙 (âm Nôm) Mộc La 木 羅 (âm Hán) Đê Thuỳ Vũ 堤 垂 羽 (âm Hán) Nước Kén Óng 渃 絸 鞅 (âm Nôm) Nghiễn quốc 研 國 (âm Hán) Sông 滝 (âm Nôm) Thuỳ Vũ 垂 雨 (âm Hán)
**** CHÚ THÍCH [4] Lấy chồng chung - Hồ Xuân Hương (trích) [5] Ở bề mặt, bề ngoài gọi là phù 浮; đốt, cháy là thiêu 燒. Phù thiêu 浮燒 là loại độc gây tổn thương lớp da từ biểu bì tới trung bì của cơ thể, triệu chứng như bị phỏng tàn lửa (theo truyện). [6] Một canh 更 gồm hai giờ 𣇞 là 120 phút, một giờ tức nửa canh là 60 phút. Xem thêm chú thích “canh 更” ở chương 5. [7] Kín, ẩn là tiềm 潛, phương pháp là thuật 術. Tiềm thuật 潛術 là tên gọi chung cho loại công pháp mượn vật mà đi đồng thời ẩn bám vào vật, có thể kết hợp với bôn thuật (theo truyện). Xem thêm chú thích “bôn thuật 奔術” ở chương 6. [8] Sự thành thực, lòng thành là tín 信, cái lẽ phải noi theo là đạo 道. [9] Họ là tính 姓, tên là danh 名. [10] Đứng đầu là nguyên 元, tướng cấp cao nhất trong hàng ngũ quân đội là suý 帥. Nguyên suý 元帥 là tướng đầu, thống lĩnh toàn bộ quân đội; trong bối cảnh truyện, hoàng đế Hoành quốc lấy danh xưng này đồng nghĩa với việc ngài là người trực tiếp chỉ huy điều động quân binh chứ không thông qua trung gian tướng lĩnh nào khác (tương tự chức tổng tư lệnh). [11] Người sẽ thừa kế ngôi vua là trữ 儲; ngài, tiếng tôn xưng người khác là quân 君. Trữ quân 儲君 tức người được định sẽ kế vị vua một cách hợp pháp. [12] Giữ lại là lưu 留; thơm, ngon là hương 香; nước, chất lỏng là thuỷ 水. Lưu hương thuỷ 留香水 nghĩa là trữ, giữ chất nước thơm; đồng thời là tên của một trong ba bảo vật trấn quốc của triều đình nước Hoành (theo truyện). [13] Vàng (kim loại) là kim 金, chỉ chung các loài lan (cây) là lan 蘭, đồ sứ tinh xảo là từ 瓷. Kim Lan từ 金蘭瓷 tức sứ Kim Lan, Kim Lan là tên riêng của một địa danh chuyên sản xuất đồ sứ (theo truyện).