Nghe y thốt câu trên xong khiến Hương Xuân Lâu thật tin, tên này nhất định không xưng cô là công chúa!
Riêng trong lòng Vương Vi có điểm tồn nghi, bèn băng qua đống hổ lốn, nào hàng rào gãy nào đất bung xới, đến chỗ vị trí vũng máu biến mất, y ngồi xuống rờ thử: không có gì cả? Chính xác ngay tới hơi ẩm cũng khô hết, mặt đất tại đây ráo hơn chung quanh, rất đáng ngờ. Xương, tóc, móng là những phần phân huỷ chậm nhất của cơ thể nhưng giờ chẳng còn tăm tích, chưa kể quần áo tan rã khi nào? Vết thương trên mặt Vương Vi đã hồi phục hoàn toàn, thời gian y chạm trán với A Hường chắc tầm nửa canh, so với khoảng thời gian độc phát tác trên di thể hai lão nhân cũng gần gần nhau, lẽ nào vì y là người sống nên chịu ảnh hưởng yếu hơn?
Hương Xuân Lâu thu hồi Lưu Hương Thuỷ vào túi thêu rồi mon men theo sau họ Vương, cô bé mắt tinh nên hiện trường thế nào thì thấy rõ thế ấy, hôm nay trăng sáng đẹp song cái nặng nề của đêm vẫn chẳng vơi lạt đi chút nào. Hai người kiểm tra xung quanh túp nhà tranh, vào bên trong xem nội thất, thật là nghèo nàn, chỉ hơn nhà Vương Vi nhờ có cái tủ chạn, lạ lùng là bếp lò trông như rất lâu chẳng ai đụng đến: bụi phủ củi mục, chảo niêu úp mặt vào tường với vẻ ê chề của những kẻ bị bỏ rơi. Họ không nấu ăn trong nhà hay là vốn không cần ăn vậy? Vương Vi nghĩ, ngẫm lại lúc cụ ông chạy ra khi nghe bà chủ nhất kêu giao gạo, rồi đoạn hai ông bà đối đáp với nhau, tựa hồ không giả.
Mùi vị khó chịu vẫn thoảng nhàn nhạt, độc ăn mòn không quá mạnh vậy vì sao có thể khiến hai ông bà cụ rơi vào tình cảnh kia? Chắc chắn phải có tiền đề nào đó mà Vương Vi và công chúa đều chưa biết; cố nhiên sinh lòng ngỗ nghịch với hai đấng sinh thành của mình, tâm ý A Hường coi như vô phương cứu chữa. Giờ bảo gã quay đầu dường không thể, trục xuất gã với lão thầy kia coi bộ cũng khó, xem ra phương án khả thi nhất là tiêu diệt triệt để mầm mống tai hoạ. Ngó sang cô bé lùn đang đứng trước khạp gạo trống trơn, chừng cảm khái gì đó, mới để ý tay chân cô bé rất mảnh khảnh, đây hẳn do thể chất chứ chẳng phải thiếu ăn.
Mặc dù chính đạo, ma đạo, đôi bên tạo thế đối đầu, còn vươn tay đến tận đây, song nhìn xem công chúa Hoành quốc cũng tu nguyên, cái gọi “luật bất thành văn” tại nước Ngang lại không thiếu ngoại lệ đâu nhỉ? Vẫn còn một việc, Vương Vi muốn hỏi lâu nay:
“Tại sao trong nước có luật ngầm là cấm nhắc tới tu nguyên?”
Hương Xuân Lâu nghe thấy lời của y, quay đầu tỏ vẻ ngạc nhiên, sau mới trả lời:
“Bởi vì chúng ta không muốn bị giới nguyên sĩ khống chế.”
Ra là họ bịt mắt dân chúng nhưng không bịt mắt chính mình! Chỗ hiểu biết của dân chúng và triều đình, sáng - tối cách biệt, đây không phải điều tốt.
Họ Vương đoán:
“Khống chế việc gì? Triều chính?”
Hương Xuân Lâu thần tình phức tạp:
“Rất nhiều việc, không chỉ triều chính! Ta cho ngươi xem vật này…”
Cô bé nắn nắn rồi lại lắc cái túi thêu ban nãy thêm lần nữa, vọt ra một cuộn trục bằng lụa cam may chỉ ngũ sắc, phần trục sơn son hai đầu. Hương Xuân Lâu mở cuộn trục ra: là bản đồ chi tiết của đông ngũ bộ. Thuộc loại bản đồ hai lớp xếp chồng lên nhau, có thể nghiêng qua lại để nhìn từng lớp: lớp thứ nhất là hoạ đồ ranh giới lãnh thổ, lớp thứ hai là đồ hình địa lí. Vừa liếc sơ liền thấy hai đại châu Mộc Lan và Đại Bạch đều ít quốc gia nhất, trong ba châu còn lại thì châu Mộc Tê nhiều nước nhất, châu Chúc Thuỷ lắm chư hầu nhất dù chỉ có hai mẫu quốc.
“Ngươi đọc được chữ, xem vậy có hiểu không?” Hương Xuân Lâu hỏi, vì cô bé nghĩ rằng Vương Vi đọc được chữ là nhờ đi học ở trường, cho nên “biết chữ” đồng nghĩa với “có kiến thức”.
Thật ra Vương Vi học chữ với Ái Nhân, nhưng không phải cái gì Ái Nhân cũng biết, dẫu sao cuộc đời của huynh ấy trải qua rất nhiều bất đắc dĩ và Ái Nhân không thường ở nhân gian lâu. Tuy vậy họ Vương dựa trên bản đồ tự suy luận được, nhanh chóng nắm bắt những cái tên trên đó, xem ra đêm nay cũng có thu hoạch về mặt kiến thức, y trả lời công chúa rằng:
“Ta nghe bạn bè nói châu Mộc Lan với châu Đại Bạch có nhiều người tu nguyên, việc học nguyên thuật tương đương một dạng nghề nghiệp, ngay cả vua cũng là nguyên sĩ. Bởi vì phạm vi quan sát của nguyên sĩ vượt hơn người thường nên đơn vị hành chính các quốc gia tại đó chia nhỏ rồi gộp lớn, tuy nhỏ nhưng cũng bằng một quận ở châu khác. Trên đây vẽ đại bản doanh các phái cùng cơ quan triều đình gần nhau nhằm dễ bề quản lí và liên lạc, tương tự là trường học: học sinh sẽ từ học chữ chuyển sang học nguyên thuật thuận tiện hơn. Ta nghĩ việc thi cử tuyển quan lại trong nước ắt sẽ có phần dành cho nguyên sĩ và quy chế quân đội của quốc gia cũng thế!”
“Ừ, ngươi nói đúng!” Quả nhiên y biết không ít, hẳn là tìm được thầy tốt! Hương Xuân Lâu ngầm công nhận. “Vậy ngươi cũng đã biết đời sống của nguyên sĩ khác người thường như thế nào: từ ăn uống, vận phục, đồ nghề, các loại thẻ bài chứng minh thân phận. Ngươi sống ở nước ta một thời gian rồi chắc ngươi hiểu rõ: chúng ta không hề giàu có, tài nguyên ít ỏi, vì vậy việc tái sử dụng tài nguyên là điều kiện sống còn! Bởi quốc khố cũng không dư để nhập khẩu mọi thứ từ bên ngoài, nội lương thực cốc mạch thôi mỗi năm triều đình phải chi khoảng bảy phần mười ngân sách mới đủ cho dân và trong cung dùng. Vàng ở nơi khác có thể quý nhưng với chúng ta mà nói những vật chỉ trưng cho đẹp thì sẽ vô dụng, cho nên nước ta mới yêu sắt và đồng nhưng sắt thì Hoang quốc gần như độc quyền, vì vậy chúng ta luôn cần đồng và liên tục tái chế nó nhằm duy trì nguồn tài nguyên hữu hạn này. Thuế lượm đồng đúng là hơi cao dù nghề này ở nhiều nước khác hầu như không phải đóng thuế, nhưng ở nước ta thì thuế lượm đồng chính là khoản cung cho quy trình tái chế đồng của quốc gia: đồng không thể tự tái chế nó và việc bảo trì các cơ sở tái chế nhằm đảm bảo quy trình này không bao giờ gián đoạn là tối quan trọng!”
Vương Vi gật đầu tiếp thu, không hề tỏ ra buồn ngủ, Hương Xuân Lâu bèn tiếp:
“Nguyên sĩ có nhiều năng lực hơn người thường do nhờ ‘đắp vốn’ gấp mấy lần, thời gian tu luyện của họ nhằm đạt được thành tựu so với thời gian lao động sản xuất của người thường luôn tiêu tốn hơn! Ví dụ để một người sở hữu tư chất không nổi trội, bắt đầu từ chưa tu nguyên đến viên mãn cảnh giới đầu tiên là vận nguyên sẽ mất tầm ba năm, suốt ba năm đó y phải luyện công liên tục nên hầu như không có thời gian làm việc ngoài lề, các nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở cần được chu cấp bởi bên ngoài. Trong khi một năm là đủ để nông dân trồng lúa thu hoạch ít nhất một vụ, một ruộng lúa có thể nuôi cả trăm miệng ăn cho năm sau và năm sau lại gặt hái thêm mùa nữa. Mà tu sĩ mới ở mức vận nguyên cũng chưa gọi là có gì đáng kể, họ cần hoàn đan, thông linh cụ và nhất là pháp bảo để tiến xa hơn nữa, vượt qua tầng lớp lực sĩ mới coi như vượt hơn người thường, nuôi được một nguyên sĩ tới trình độ đó sợ rằng cả trăm người thường lao động quần quật để cung cấp cho cũng còn thiếu hụt…”
“Như ta biết, vì quê ta cũng trồng lúa nuôi miệng ăn,” Vương Vi lên tiếng trong lúc cô bé nghỉ lấy hơi. “Một ruộng lúa chín chẳng khi nào gom về đủ mười phần sản lượng vì hao tổn do lúa chín không đều, sâu, bệnh, chim, chuột cắn phá; rồi thất thoát thêm trong lúc gặt, phơi, xay, xát sẽ giảm tỉ lệ gạo thu được nữa, đó còn chưa tính thiên tai bất ngờ hoặc gặp năm mất mùa. Bởi vậy mẹ ta mới nói: Trên ruộng lúa vàng, hàng hàng nước mắt…”
Bao nhiêu cơm gạo nuôi một đời người, giả mà đem ra tính rạch ròi thì è cổ trả không hết!
“Ồ,” Hương Xuân Lâu tuy hiểu biết rộng nhưng dẫu sao cũng là công chúa cung nội, chưa từng làm nông bao giờ, những gì Cực Đồng nói có điều là lần đầu được nghe. “Nhà ngươi cũng trồng lúa sao?”
“Không, nhà ta không có ruộng mà ba mẹ ta già rồi nên không cấy ruộng chung với mọi người được, thuế thuê ruộng vùng Chài cũng không kém thuế lượm đồng ở đây đâu! Lúc mắt mẹ ta còn tốt thì bà thường may túi đựng gạo bán dưới chợ làng, ba ta làm nghề đan sọt tre cũng bán buôn dưới đấy, sau này ta được sinh ra rồi lớn thêm một chút thì cùng với ba vào rừng hái măng đổi gạo với mọi người.”
Vương Vi gặp gỡ Ái Nhân cũng nhờ cái duyên mưu sinh ấy, lại còn có dịp đấm nhau với lão khỉ già kia!
Hương Xuân Lâu thắc mắc:
“Gia đình ngươi không có họ hàng nào ở gần ư? Sống chỉ có ba người?”
“Quê nội ta ở vùng khác, quê mẹ thì ở vùng Chài, người thân bên ngoại cũng sinh sống trong vùng Chài nhưng tản cư nên ít thăm hỏi qua lại lắm, họ có mất lúc nào nhà ta cũng chẳng biết luôn. Nói chung họ hàng của ta đều thuộc dạng neo người, đến ngày giỗ tổ tiên thì nhà ai nấy tự cúng quải thôi chứ ở xa nhau quá chẳng hội họp chung mâm một bàn được!”
Vương Vi còn chưa biết mặt cậu, mợ mình trông như nào, chỉ chắc chắn là họ có tồn tại thôi…
“Giờ ngươi còn một mình, có cảm thấy buồn không?” Hương Xuân Lâu hỏi han, hèn chi y có vẻ lầm lì vì lớn lên trong hoàn cảnh biệt lập.
“Không có,” họ Vương thật lòng đáp. “Sống, chết là việc thường, tại sao phải buồn bã? Quan trọng là khi người thân còn sống thì hãy giúp đỡ quan tâm họ, họ chết rồi lại ngồi tưởng nhớ lâm li để làm gì!”
“Vậy nên ngươi tu nguyên, không phải vì trường sinh?” Bởi kéo dài tuổi thọ là tác dụng đầu tiên của việc tu nguyên, mà cái chết lại là sự kiện luôn khiến người ta sợ hãi.
“Không phải!” Vương Vi xác nhận.
“Thế thì vì điều gì?” Chẳng lẽ y muốn tìm bạn? Hương Xuân Lâu cả nghĩ.
Song họ Vương trả lời một câu rất liên quan:
“Ta muốn chế tạo nhiều chiếc xe đẹp!” Đẹp hơn mấy chiếc xe bò ngày ngày chạy dưới dốc đồi và đường làng nhiều…
Công chúa đang rất xúc động với cái thân thế cô độc của đối phương, nghe hết câu trên liền tụt cả cảm xúc! Xe đẹp với tu nguyên thì có mối liên hệ mật thiết nào?
“Ý ngươi là phi hiên[14]?” Công chúa chợt nhớ ra một thứ, một thứ vô cùng đắt đỏ trong giới tu nguyên.
“Phi hiên là gì?” Vương Vi hỏi lại. “Kiệu bay?”
“Thì cũng từa tựa thế, các môn phái lớn thường sở hữu chúng, một số nguyên sĩ giàu có cũng sắm cho bản thân nữa, chủ yếu để khoe thôi chứ đa phần phi hiên di chuyển không nhanh bằng bôn thuật!”
“Ta cần gì kiệu bay chứ!” Hôm nay họ Vương ngộ thêm một lẽ: “làm màu” đâu đâu cũng có. “Xe mà ta muốn chế tạo ra khác xa mấy thứ đó, tóm lại ta muốn có một công việc mà cả đời làm hoài không thấy chán, một công việc thuộc về sở thích chứ không phải để mưu sinh!”
Y chốt thêm:
“Cuộc đời không có mục tiêu thật là một cuộc đời vô nghĩa!”
Ngươi bị rảnh thì có! Hương Xuân Lâu thầm phê bình, song chí ít tên này còn ra dáng hơn mấy kẻ ưa hô hào đao to búa lớn nhưng thực chất thì rỗng tuếch, có phải vì vậy mà một công pháp khả nghi như Thanh Minh Tâm Quyết gì đó y cũng dám thử?
Vầng dương mờ ảo dần tỏ rạng rồi, Vương Vi chẳng muốn luống thêm thì giờ:
“Tóm lại Hoành quốc không đủ tài nguyên để đào tạo hàng ngũ nguyên sĩ cho riêng mình, mà nếu vời nguyên sĩ nơi khác về thì sợ ảnh hưởng an ninh trong nước và người ngoài thì ít đáng tin cậy. Hơn nữa đây cũng là chủ trương của các nước láng giềng, phải thế không?”
Đúng vậy, A Lục từng kể cho y và A Ba nghe rằng toàn bộ đại châu Mộc Tê đều bài xích chuyện tu nguyên dẫu chẳng cấm tiệt, nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ một sự kiện tranh chấp tài nguyên trong quá khứ. Sau sự kiện ấy hai châu Mộc Tê và Đại Bạch mới tách đôi ra, đủ biết vấn đề nghiêm trọng thế nào: đây đâu chỉ bất đồng quan điểm mà còn là chia lìa địa lí!
Bất quá việc trên đã xưa cũ rồi, giờ chả mấy ai tin tưởng huống hồ là rõ biết tường tận.
“Ngươi hiểu cũng được một phần.” Hương Xuân Lâu cuộn tấm bản đồ, cho vào trong túi thêu, kéo gút tương tự lúc mở thì miệng túi khép kín y cũ, cô bé khéo léo lận túi ấy dưới thắt lưng, chẳng hằn lộ dấu vết chi cả.
“Vậy làm sao cô biết về tu nguyên?”
“Quốc sư của nước ta là một nguyên sĩ không môn phái, tài liệu về việc tu nguyên trong Đại Thư các vẫn còn số ít bảo tồn, cũng không phải ta muốn trở thành nguyên sĩ nhưng bẩm sinh ta vốn có thể chất yếu ớt nên quốc sư bảo học vận nguyên có thể cải thiện phần nào.”
“Cô mở hội buôn gạo là muốn quan sát đời sống của dân chúng à?” Chí ít Vương Vi cảm thấy lí do này ổn hơn là luyện vác gạo.
“Ngươi cũng thông minh đấy,” Hương Xuân Lâu nói lấp lửng, nhưng không muốn tâm sự nhiều. “Bất quá công việc này cũng tạo chút niềm vui, còn hơn suốt ngày đi vòng vòng trong cung phủ!”
Hai người không nấn ná thêm nữa, rời khỏi căn nhà tranh trống trước trống sau, trước nhà ngoài hàng rào thì chẳng trồng gì khác, nhà của A Hường khá sát chân núi mà lối sơn đạo tự nhiên trông có vẻ chẳng dễ đi cho lắm.
“Cô muốn xông lên núi?” Vương Vi vào chuyện chính.
“Ngươi nghĩ có nên không?” Hương Xuân Lâu hỏi lại.
Họ Vương tóm tắt tình hình:
“Trong núi Chân Dương tối thiểu phải có hai kẻ địch mặc dù ta nghĩ sư phụ của A Hường đang không tại núi, nếu lão cũng ở đây thì đã sớm ra mặt rồi! Thứ hai trên núi còn có người khác ngoài hai thầy trò hắn, lúc ta chất vấn chuyện số gạo ấy, thái độ của A Hường thừa nhận rất rõ ràng. Ngoài ra chúng ta đang thiếu vũ khí phù hợp để đối phó, cô còn nghĩ ra được gì khác không?”
Hương Xuân Lâu lắc đầu:
“Không có, ta chỉ có Lưu Hương Thuỷ để phòng thân!”
“Tức là ngoài ủ nước chữa thương ra thì nó còn biết tự vệ thụ động?”
“Nói vậy cũng không hẳn đúng, là do ta chưa đủ khả năng để xoay xở…”
“Cô chưa nói cho ta biết tiềm thuật là gì?”
Hương Xuân Lâu giải đáp:
“Là thuật giúp bản thân nương bám vào vật, tuỳ trình độ mà tiềm thuật phát huy hiệu quả khác nhau, như A Hường đã nương Mộc đô phiến để tấn công ngươi vậy!”
“Tiềm thuật phải phá bằng cách nào?”
“Mất vật nương hoặc bị mất khống chế giữa chừng.”
Vương Vi bắt lấy thông tin mới, nghĩ xem có cách nào khả dĩ giải quyết được vấn đề này không, nếu cả y và công chúa đều không đủ ‘vốn’ thì chắc phải chờ vị Vũ Hoà Quân kia đến…
“Ngươi đang ở cảnh giới lẫm dư đúng chứ?” Hương Xuân Lâu đoán A Hường nhỉnh hơn y một chút, cụ thể về mặt sử dụng nguyên năng thì tên ma đạo kia khống chế tốt hơn, ít dư tổn hơn Cực Đồng.
“Không rõ, ta trước giờ chưa từng biết tới cảnh giới nào cả!”
Ái Nhân cũng chẳng bàn cảnh giới, Thanh Minh Tâm Quyết cũng không luyện thành cái gì cao siêu, chỉ là một cách thức vận nguyên cổ xưa nhưng phù hợp với tộc Người.
Hương Xuân Lâu đành giảng thuyết từ phần cơ bản nhất:
“Ngươi biết vận nguyên thì nguyên khí của ngươi sẽ tuần hoàn mạnh mẽ hơn lúc thường, có chu trình chặt chẽ hơn, nguyên uyên vì vậy được củng cố, do đó ‘khí’ trở thành ‘năng’, ngoài duy trì sự sống bên trong còn có thể phát xuất ra bên ngoài như một cánh tay vô hình biết co duỗi, thật ra là hơn cả một cánh tay nữa nhưng nói vậy cho ngươi dễ hiểu! Tuy nhiên nhiêu đó vẫn chưa đủ, ‘cánh tay’ của ngươi chưa đủ mạnh ‘nắm, giữ’ được vật nên càng phải tài bồi nhiều hơn, làm cho nguyên uyên đầy đặn dần lên, chính là giai đoạn lẫm dư mà ta đang nói tới!”
“Nguyên uyên thế nào mới gọi là đầy đặn?”
Vương Vi thử hình dung cái gọi là “đầy đặn” không có hình tướng đó, song y vẫn bảo thủ cách diễn đạt của Ái Nhân về khí trùm trời đất: khí đó tự nhiên, vạn vật vốn có, biểu hiện tuy khác nhưng gốc thì đồng, động tĩnh chẳng hai mà thường biến hoá.
Hương Xuân Lâu đâu biết y từng tiếp cận những lời trừu tượng trên, cố gắng nghĩ cách cụ thể hoá cho y hiểu rõ:
“Ngươi vận nguyên tối đa, nâng được bao nhiêu cân?”
“Ta chưa thử làm vậy bao giờ,” Vương Vi ngẫm lại. “Nhưng mà ta đi lượm đồng, vác bao lớn cỡ nào cũng không thấy mệt!”
“Lần lượm được nhiều nhất của ngươi là mấy cân[15]?” Hương Xuân Lâu rõ trong thành Đồng Nham chẳng nhiều nhặng phế liệu lắm, bì chẳng kịp với các thành khác.
“Khoảng một trăm đến một trăm hai mươi cân.” Lần đó là Vương Vi mò vét cả hai ngày rưỡi mới được nhiều thế.
“Ngươi nhắm mình có thể vác được gấp mấy lần như vậy?” Chí ít cũng còn cách này để lường được cảnh giới của y, mặc dù chưa sát sao với thực lực lắm.
“Năm mươi lần.” Vương Vi đáp chắc chắn, hơn chút nữa cũng có thể nhưng bảo là dễ dàng thì chưa chắc.
“Một lẫm dư mới tiến cảnh có thể nâng tầm một tấn[16], như ngươi nói thì phỏng chừng ngươi sắp đạt tới khí cao rồi!”
Công chúa không nghĩ y đi được xa thế, vấn đề nằm ở chỗ sở học của tên Cực Đồng này chẳng đến đâu cả, ông thầy nào bỏ con giữa chợ như vầy? Hương Xuân Lâu thấy đáng tiếc cho tên “đồng đội” này, giả y gặp sư phụ có trách nhiệm hơn sẽ đỡ lãng phí thời gian rất nhiều.
“Thế cảnh giới vận nguyên tối đa nâng được bao nhiêu?” Vương Vi lại hỏi.
“Khoảng năm tạ.”
“Còn khí cao?”
“Mười tấn hoặc hơn, có điều khi đã vào khí cao thì chuyện đo theo sức nâng kiểu này không còn ý nghĩa nữa!”
“Tại sao vậy?”
Thông qua lời của công chúa, Vương Vi dần hệ thống được danh mục cảnh giới mà các nguyên sĩ đã đặt ra kia, có lẽ Ái Nhân cũng nằm trong mục cảnh giới nào đó song huynh ấy chưa từng quan tâm đến chúng. “Thứ phải giữ được là bản tâm, không phải sức mạnh,” đại huynh của y từng thốt lời như thế. Riêng Vương Vi tự diễn giải câu đấy, rằng: sức mạnh có thể tuỳ lúc tăng giảm nhưng bản tâm thì mãi còn; thành ra khi nói đánh mất bản tâm kì thật đang chỉ tình huống tâm mất phương hướng, giống như chủ nhân tự quên chính mình nên bị đoạ lạc trầm luân.
Phương hướng gọi là đạo, đạo thì phải thật không nguỵ, thật chính là tín, cho nên Vương Vi lấy “tín” làm đạo tâm của mình.
Bấy giờ Hương Xuân Lâu cắt nghĩa vấn đề cho y như sau:
“Bởi vì khí cao nghĩa là nguyên khí của ngươi đã cực kì tràn đầy, nếu còn tiếp tục củng cố gia tăng tất rơi vào cảnh ‘vật cực tắc phản’: có thể bị ‘thoát nguyên’ trở thành phế nhân, hoặc phát điên do mất khống chế nguồn nguyên khí khổng lồ, hoặc nguyên uyên cường đại tột độ dẫn tới nội xung đột khiến nó cong vẹo mà tàn tật luôn! Tóm lại, ngay khi cảnh giới khí cao sắp đạt đỉnh thì phải ‘trảm’ ngay, ‘trảm’ bằng cách tự chém vào nguyên uyên tạo một ‘vết hở’ để nguyên khí có lối thoát nhưng không được chém quá mạnh tay, nguyên uyên mà bị tổn thương nghiêm trọng là hết cứu!”
“Cho nên sau khí cao là cảnh giới trảm nguyên?”
“Không phải, là tuyệt hàn!”
“Hiểu rồi,” Vương Vi gật đầu, nắm điểm mấu chốt rằng “lúc nên chặt liền chặt”, xong hỏi tiếp. “Pháp bảo của cô có thể sử dụng mà khỏi cần nguyên năng à?”
“Có cần chứ, nhưng cần ít!” Hương Xuân Lâu xác quyết. “Chẳng có pháp bảo nào không cần dùng nguyên năng mà xài được, ngay việc cầm nổi nó lên đã phải vận nguyên năng rồi, sức nặng của pháp bảo chẳng thể người thường nâng được đâu!”
Vương Vi đề xuất tình huống:
“Giả sử ta cầm cái bình hồi nãy của cô ném vào người A Hường thì hắn có bị thương không?”
“Hắn có cái quạt đó sẽ đỡ được, mà ai cho phép ngươi dùng quốc bảo để liệng hả?” Hương Xuân Lâu hơi lo rồi, tên này không hề phân biệt giữa đồ quý với đồ thường, e rằng chỉ cần y nghĩ là có thể thì sẽ thử hết!
Tất nhiên Vương Vi chẳng tính làm thật, cái bình chứa nước trị thương lại đi ném cho đối phương, bị ngớ ngẩn à? Y đang suy nghĩ cách để đánh bại tên tóc rong biển đó, bất kể muốn áp giải gã hay muốn tiêu diệt gã hay muốn moi được thông tin từ gã đều cần phải bắt được gã trước. Họ Vương rất bận tâm cái quạt lá đu đủ nọ, ngoài biết bay và khá bén ra thì còn làm được gì nữa nhỉ? Thiếu thông tin thật bất lợi.
“Cô biết dùng tiềm thuật chứ?” Vương Vi thầm nghĩ cái quạt trong tay A Hường cứng cựa chẳng kém cái chén mà Ngạc Thật mang ra dụ y trên lầu Lạn Nguyệt, muốn dùng sức của cơ bắp để phá vỡ nó là bất khả thi…
“Chưa,” Hương Xuân Lâu lắc đầu. “Thuật này muốn học mà không có độn phù[17] hỗ trợ sẽ khó lắm…”
“Chẳng lẽ có độn phù mới ẩn náu được?”
“Ý là ban đầu dùng độn phù để làm quen, sau đó dần dần tự thực hiện được mà không còn cần tới phù nữa!”
Hương Xuân Lâu phải bổ sung thêm:
“Đừng hỏi ta có phù đó không, không có!”
Hai người ngừng thảo luận, tự gẫm một lúc, cuối cùng công chúa lên tiếng:
“Chúng ta vẫn nên đợi Vũ thúc của ta đến đi thì hơn, ngươi cũng không cần tham chiến làm gì đâu, vốn dĩ ngươi là người vô tình bị liên can…” Lại cảnh cáo. “Nhưng tất cả những việc ngươi đã chứng kiến qua nay đều không được nói, cũng phải dặn Đài Các với Mắn và A Ba như vậy!”
Vương Vi gật đầu với bà chủ nhất, dù sao tính lực lượng hiện tại thì phần thắng chưa được năm mười, y cũng chả ham hố lập công trạng gì ở nơi đất khách. Tuy rằng không thể tiếp tục mượn việc này để có thêm thông tin về vấn đề luyện thành pháp bảo, song cái bản đồ đông ngũ bộ châu mà Hương Xuân Lâu cho y xem thật là gãi đúng chỗ ngứa: Thôi Vũ Môn trong miệng Ngạc Thật hoá ra nằm tại nước Địa của châu Mộc Lan. Khả năng cao Tân Cố là bị dẫn bắt sang đấy, dù không phải đi chăng nữa thì thằng trộm nấm đó cũng chỉ loanh quanh trong phạm vi năm châu này; một cái xe, một cái xe bay sẽ giúp họ Vương tóm được gã!
Rột! Rột!
Không thú rừng nào cả, là bụng công chúa sôi reo lên, bỏ bữa tối qua giờ trời đã sáng, Hương Xuân Lâu đâu chuẩn bị cho sự cố lỡ bữa ăn này nên dạ dày cô biểu tình hoàn toàn hợp lí. Vương Vi cũng chưa ăn nhưng do công việc làm dài làm ngắn thất thường, họ Vương chỉ ăn khi thấy đói hoặc buổi tối thường là bữa cố định, hôm nay giá mà có bột đổ bánh xèo nhỉ…
Ngặt nỗi quan quận Vũ Hoà Quân sẽ chi viện kịp sáng nay hay không vẫn còn bỏ ngỏ, chỗ này quá héo lánh mặc dù vẫn thuộc quận lớn, núi Chân Dương là kiểu núi đá ít cây, với đặc trưng khí hậu mưa cục bộ lại không đều như Hoành quốc thì kiểu địa hình này khá phổ biến, lượng giáng thuỷ hằng năm trong nước không cao, chả bù cho Hoăng quốc mùa nào cũng ê hề lênh láng. Ngược với nước Ngang nhiều đồng bằng thì nước Hoăng lắm núi non hơn, dân bên đó sống theo lối sơn cước chứ nông nghiệp trồng lúa không phổ biến bằng bên láng giềng, đáng buồn là nước người ta trồng lúa ít song sản lượng lại cao hơn hẳn Hoành quốc: quận nào cũng canh tác ruộng đồng mà chẳng vượt nổi số lượng lẫn chất lượng. Vương Vi nghĩ có thể do chính sách hỗ trợ nông nghiệp của triều đình nước Ngang chưa đánh trúng trọng tâm: nông dân trồng lúa dễ thất thu lại không được nâng đỡ vốn khiến họ phải chọn nửa nông nửa nghề, hoặc làm nông hỗn hợp kèm thêm nhiều loại cây khác ngoài lúa, thế thì làm sao nâng đầu ra của gạo lên được? Một nghề cho chín còn hơn chín nghề, phụ thuộc nhiều vào hàng nhập khẩu cũng nguy hiểm cho sức sản xuất trong nước, mà nghề nghiệp không đủ lo thân thì người ta dễ bỏ nghề bỏ quê đi nơi khác…
Vương Vi miên man suy nghĩ, y nghĩ rất nhiều vào lúc đói, là cách tự chống đói hiệu quả. Hương Xuân Lâu dần quen với thái độ lãnh đạm của Cực Đồng, nghe hiểu về hoàn cảnh của y làm cô cũng thông cảm, Hoành quốc không phải miền đất hứa với đại đa số người song y từ chốn quê mùa nào đó ở châu Nam Quế vượt biển sang đây kiếm ăn, hẳn còn có nơi nghèo nàn hơn cả quê hương của cô nữa. Nhưng mà đói quá, công chúa ngồi xuống chờ thời bên cạnh “đồng đội”, cơn đói đôi khi còn đáng sợ hơn cả cái chết, khiến suy nghĩ của người ta trở nên tham lam hơn, ví dụ như ngó đất sét cũng chảy nước miếng…
Vương Vi không hẳn chìm trong bộ tư duy của mình, lần nhịn hết được việc thấy cô công chúa nghịch đất sét ra một con cá rồi nhìn nó chằm chằm với vẻ háu ăn khó tả:
“Trên núi có thể có quả dại, để ta đi hái cho cô,” bổ sung thêm. “Đừng ăn đất, đất rất khó tiêu hoá!”
“Hả? Không được đi!” Hương Xuân Lâu chụp cánh tay y, ngay lúc Vương Vi vừa đứng thẳng lên.
“Chẳng sao cả, chỉ gần quanh chân núi thôi, ta sẽ không đi xa,” Vương Vi đoán chỗ ẩn náu của thầy trò A Hường phải ở đâu trong lòng núi, nơi gần sơn mạch và nguồn nước lộ thiên, bất kể người thường hay kẻ tu nguyên đều biết cần chọn chỗ thuận lợi nhất để sinh hoạt. “Quê nhà ta cũng có núi, còn rậm rạp rộng lớn hơn núi Chân Dương này!”
Hương Xuân Lâu cũng ngồi dậy, tay vấy đầy đất nâu, đất ở đây nếu ráo một chút ắt vô cùng phù hợp để phát triển nghề gốm, cô bé nhíu mày:
“Nhưng mà lỡ ngươi lạc đường trong đó, hoàng thúc của ta đến còn phải phái quân lính đi tìm ngươi, sẽ hỏng cả việc lớn!”
Tuy họ Vương chưa hỏi kĩ song y hiểu việc báo cáo cho Vũ Hoà Quân là bước một, để ông ta chạy mời quốc sư là bước hai, bước ba là cả hai người họ dẫn binh tới ứng cứu, khả năng vị quan quận Tuỳ Nhiêu cũng là nguyên sĩ dù công chúa bảo trong nước thiếu tài nguyên để tu nguyên nhưng nếu triều đình đã chứa chấp cá nhân tu nguyên thì hẳn không quá kiệt vốn. Vương Vi tự suy luận nhiều tuy ít nói ra, có thể cho là y cũng lắm lời nhưng là lắm lời trong tư tưởng; kì thật họ Vương cũng muốn thử quan sát xem tình hình trong núi thế nào, giả lão sư phụ của A Hường không có thêm tay chân khác nữa thì một mình y đi thám thính sơ bộ chẳng phải không khả thi. Nói đi cũng cần nói lại, Vương Vi không muốn mạo hiểm mà chẳng được gì, đáng ra vào thời điểm này mọi thường y đã vác bao đội nón đi làm từ lâu rồi, bữa nay thất thu chưa chắc được đền bù, trận này góp công có thắng thì y cũng là người ngoại quốc, không những phải giữ bí mật mà nếu triều đình bổn quốc đa nghi phỏng chừng còn ngầm giám thị y sau này. Tóm lại, hại người thì chẳng nhưng phòng người thì nên, Vương Vi vốn dự định giống Thác là rời khỏi khu vực cũ, có thể y lại xuất ngoại lần nữa, bằng đường biển, mong rằng vấn đề ma đạo tại núi Chân Dương được giải quyết gọn ghẽ, không phải dùng đến hạ sách là âm thầm rời đi. “Con đừng làm chuyện gì mà sợ người khác biết,” ba Vương vừa vá áo vừa móm mém cười dạy trẻ nhà trên ghế đẩu, mẹ Vương bệnh nằm ngủ mê nơi chõng tre. “Đói cho sạch, rách cho thơm.”
Vương Vi thoát khỏi hồi tưởng bằng cái trừng mắt khiến Hương Xuân Lâu giật mình, tưởng y giận:
“Ta không đói lắm, chắc tầm trưa nay là hoàng thúc đến rồi, ngươi không cần làm vậy vì ta đâu!”
“Vậy giờ quay lại thôn gần đây mua đồ ăn thì sao?” Vương Vi đưa ra giải pháp khác, tiền là vật trao đổi gọn nhẹ dễ mang theo, hẳn công chúa cũng phải có.
“Thế… ngươi đi đi, mua gì ăn cũng được,” Hương Xuân Lâu sở hữu thật nhiều túi trong người, thật tình cái cơ thể nhỏ bé độn một đống lớp áo chỉ để có chỗ nhét đồ, cô bé lấy ra một túi thêu khác chắc là túi thường, đưa họ Vương và bảo. “Ta sẽ ở đây trông chừng, tình huống xấu nhất thì ngươi sẽ thấy pháo hiệu được phóng lên cao, lúc đó ngươi cần giữ mạng vì ngươi là nhân chứng quan trọng, nếu không chờ được hoàng thúc thì cứ chạy đi, đừng nghĩ cứu ta nữa!”
Di chúc rất cẩn thận, quả nhiên là người có ăn học! Vương Vi cũng chẳng thừa lời:
“Ta đi một lát rồi sẽ về, nếu không có gì ngoài ý muốn.”
Thôn sát chân núi nhất cũng tốn một khắc[18] lội bộ song họ Vương đã làm việc thì chẳng rề rà lâu, y tìm được quán cơm duy nhất trong thôn mua hai cái bánh giò cho công chúa vì thực đơn của quán vô cùng nghèo nàn, chỉ có ba món: bánh giò, bánh giầy, nước chè xanh. Y dùng tiền của mình mua bánh giầy cho bản thân, hai đồng năm cái vì gạo ở đây mắc, nhưng chất lượng bánh khá ổn, hơn cả mớ hàng quán bán đồ lót dạ trong thành Đồng Nham. Xong xuôi, Vương Vi theo đường cũ quay lại ngôi nhà của A Hường, công chúa còn nguyên chưa sứt mẻ miếng nào nhưng kèm theo rất nhiều tượng đất xếp hàng bên cạnh con cá đầu tiên.
“Đây là tiền dư,” họ Vương trả túi tiền cho công chúa.
“Ngươi cứ giữ đi, không nhiều gì đâu!” Quả là người nhà quê, thật thà chất phác! Hương Xuân Lâu cũng không muốn đòi chi vài đồng, bất quá ấn tượng của cô về Cực Đồng tốt hẳn lên, xua đi bận nghi ngờ việc y luyện ma công trước đó.
“Không nhận!” Vương Vi lắc đầu.
Công chúa thấy y như vậy cũng không đôi co nữa, thu lại túi tiền của mình rồi giở bánh giò ra ăn, ngay cái đói qua đêm và lạnh lùng buổi sớm, chiếc bánh nóng hổi chẳng có gì ngoài bột gạo hấp với nhân thịt, nấm ít ỏi, lại ngon và ấp áp vô cùng. Gọi là bánh hạnh phúc cũng không sai ngoa! Hương Xuân Lâu cảm thấy phấn khởi dù tình hình chưa nhiều dấu hiệu khả quan.
Vương Vi chậm rãi ăn bánh giầy, y mua bánh này không chỉ vì giá cả mà khi nhai bột dẻo lâu sẽ cho cảm giác no hơn, là cách ăn tiết kiệm chi phí. Bấy giờ công chúa mới để ý y không ăn bánh giống mình, bánh giầy thì lạnh ngắt, bèn hỏi:
“Sao ngươi không mua bánh giò?”
“Không thích.”
Họ Vương từ chối giải thích dài dòng, may mà cô bé lùn tuy hay hỏi han những cũng biết nên ngừng lời lúc nào. Mọi việc đương tốt đẹp tự dưng Hương Xuân Lâu cau mày kêu:
“Ui da!”
“Sao thế?” Vương Vi thấy cô bé đổi sắc mặt, chừng đau đớn. “Trúng thực?”
“Không, không phải…” Công chúa rất khó xử, mãi mới nói. “Ta cần đi vệ sinh!”
Vấn đề là nhà thôn dã thường không xây nhà xí vì dân quê hay ra đồng ra bụi giải quyết cho nhanh lại còn mát mẻ, nhưng công chúa sao mà thích nghi được với nhà xí thiên nhiên? Bởi dù có hành nghề giao gạo song cô bé vẫn ở trong nhà thành thị, một số nhà xí thành thị được xây riêng như cái mà Vương Vi hay dùng, dẫu vậy vẫn là kiến trúc bốn vách có mái có hầm tiêu đàng hoàng…
“Để ta tìm chỗ nào sạch sẽ!”
Họ Vương cũng không tưởng tới đột nhiên xảy ra sự cố tuy tự nhiên mà thiếu tự chủ này, hơn nữa chỗ rừng núi lạ coi chừng độc trùng ẩn nấp, y bèn chạy vào nhà A Hường kiếm con dao rựa đi phát quang gấp một bụi dại khuất lấp gốc cây lớn gần đó, tàn cây đủ rộng để che chắn người ở bên dưới, sẵn dao xắn đào một cái hố sát rễ cây coi như xài xong thì bón cây luôn! Cần phải kiếm thêm hai miếng cót cũ mềm trong căn nhà tranh đem vây chúng lại thành cái chòi tạm thời nữa, may mà y quen làm việc với tốc độ cao chứ không là chẳng kịp với tốc độ đau bụng của công chúa…
“Cảm… ơn.” Hương Xuân Lâu lần đầu tiếp cận nhà vệ sinh kiểu này, nhưng thôi còn đỡ hơn ngồi giữa trời mát mát.
“Cô có mang đá tẩy chứ?” Loại đá đó dùng để lau chùi sau khi đi nặng, là dạng đá xốp được cắt miếng, mà thật ra cũng phải nhà sang cả mới đủ khả năng mua dùng.
“Ta tự lo được…” Hương Xuân Lâu nói vọng ra.
Đúng nhỉ, cô bé còn có cái bình nước chảy kia nữa! Vương Vi nhớ lại, người khác có thể cân nhắc giá trị song y chỉ cần cảm thấy đúng nhu cầu liền dùng ngay, dù sao đâu phải phí phạm gì mà khư khư tiếc rẻ. Giờ thì họ Vương đành loanh quanh gần nhà tranh để canh chừng, chợt thấy một cặp sừng dê to bất thường từ đâu đằng xa lủi ra, xuyên qua một bụi cây lớn cách nhà A Hường độ trăm xích[19].
Tiếp theo không xuất hiện con dê nào cả mà là một người trên đầu có cặp sừng dê! Người dê này trên mặt sém vết phỏng đen, còn cõng theo một người thường khác bị băng bó cùng mình, cặp đôi kì lạ vướng bụi cây không đi tiếp được, bấy giờ người dê dáo dác nhìn quanh, phát hiện một thiếu niên lạ mặt đứng tênh hênh đằng xa, bèn kêu lên:
“Xin giúp chúng tôi với!”
Tiếng gọi không quá to nhưng khoảng cách lại đủ gần để nghe rõ, Vương Vi từng được Ái Nhân nói qua rằng đại tộc Người có bốn chi tộc: Văn Chương chính là chi của Vương Vi, Vũ Nhĩ có cánh là chi duy nhất sở hữu thiên phú bay lượn thường tập trung ở vùng núi cao, chi Địch Dương là nửa người nửa dê như hiện thấy và họ chỉ sống trong rừng, chi Bích Lân đông không kém chi Văn Chương hay định cư gần nơi có sông ngòi hoặc vùng nước lớn. Ngoài chi tộc Văn Chương và Bích Lân thì hai chi Người còn lại dân số không nhiều mà phân bố cũng rải rác, hiện nay giữa các chi tộc tương đối hoà hợp với nhau song do môi trường thích nghi chẳng đồng nên hiếm khi nào thấy xuất hiện trong cùng khu vực. Ái Nhân có một phần huyết thống Bích Lân từ bà ngoại, thời điểm Ái Nhân ra đời thì giữa các chi đang phân hoá mạnh, không coi nhau là đồng tộc, từng chịu phân biệt đối xử; chi Bích Lân thiện thuỷ mà cũng rất mạnh mẽ khi ở trên cạn, hình dáng cũng to lớn nổi bật nhất trong tộc Người.
“Có việc gì vậy?” Hương Xuân Lâu trong buồng tạm đã nghe thấy tiếng của Địch Dương nọ. “Là ai đến?”
“Một người cõng một người bị thương, đang cần giúp đỡ,” Vương Vi đáp. “Công chúa cẩn thận trước, ta sang đó xem họ thế nào!”
“Ừ!”
Địch Dương nọ thấy Vương Vi tiến lại thì mừng rỡ, liên tục nói:
“Xin giúp với, huynh ấy bị thương nặng lắm!”
“Hai vị là ai?”
Họ Vương giữ một sải gần giữa đôi bên, trong các chi thì Văn Chương coi như thiệt về mặt thể chất nhất dù văn hoá thì nổi trội nhất, tuy Địch Dương không mạnh bằng Bích Lân và cũng chậm hơn Vũ Nhĩ song tính ra họ cũng nằm giữa chi Văn Chương và hai chi còn lại.
“Tôi là Mị Hương, sống trong núi này nhưng đã bị đuổi khỏi núi; huynh ấy tên là Oanh Long, là một đệ tử của Vân Kiệt Tông!”
Giọng này chắc là nữ? Tên Mị Hương cũng có khả năng là tên của nữ, vì mặt mày đối phương có điểm giống người Văn Chương nhưng cũng có điểm khác: lông tóc cứng cáp lạ thường, chân mày dày rậm, mắt sáng nhưng đồng tử hơi ướt, trông có vẻ là người nhạy cảm đa sầu. Thân trên của Mị Hương mặc áo giáp lưới loại nhiều mắt xích lót trong, thân dưới thì quấn khố dày, cặp chân dê đi trần trên đất, kì thực với họ, mang giày là chuyện vô lí!
Chuyển sang cái tên mà Mị Hương đang cõng kia, gã gục mặt xuống vai người cõng mình nên chẳng biết diện mạo ra sao, tóc rễ tre chỉa lung tung, tứ chi đầy đủ dù quấn băng khắp nơi, máu thấm ra mặt ngoài lớp băng và đã chuyển nâu, hẳn phải băng bó một thời gian lâu trước đó. Và thứ khiến cả hai bị vướng không phải bụi cây mà là một vật to dài treo thòng dưới thắt lưng của Oanh Long, nom giống cây kiếm nhưng to tướng, chuôi đen có đồ hình mây cuộn.
Vân Kiệt Tông? Vương Vi nhớ lại tấm bản đồ mà Hương Xuân Lâu bày lúc trước, tông này có phạm vi rất lớn ở phía bắc và đông bắc nước Đại, thậm chí hoàn toàn đứng đầu về diện tích môn phái trên cả đại châu Mộc Lan. Tại sao đệ tử bên đó lại xuất hiện ở đây?
Vương Vi gật đầu với Mị Hương tỏ ý sẽ giúp đỡ rồi đi vòng qua bên phải, ngó thấy chỗ lưỡi kiếm trần bị nứt bị quấn bởi dây leo kéo lê trong bụi, y tốn không ít thời gian với sự trợ giúp từ con dao rựa mới khoắng đứt được mớ lùm xùm vướng víu đó, kéo cả cây kiếm ra ngoài, kiếm cũng nặng phết. Mị Hương thấy chỗ mắc mứu đã được giải toả, bèn đi tiếp, cõng cả người lẫn kiếm ra ngoài khu vực trống trải bằng phẳng hơn dù có dấu vết đào xới nặng gần đó, chính là nhà của A Hường.
“Cô là ai?” Hương Xuân Lâu đã giải quyết xong vấn đề tự nhiên, vừa kịp đến xem, nhận ra Địch Dương này là nữ vì nam Địch Dương đeo khuyên vàng còn nữ sẽ đeo sừng gỗ làm bông tai.
“Tôi là Mị Hương, sống trong núi này.” Mị Hương đỡ Oanh Long nằm xuống đất, gã hơi tỉnh nhưng chỉ hé mắt, quá mệt để thốt nổi lời nào.
“Cô ở trong núi Chân Dương sao? Thế có gặp qua đệ tử ma đạo nào không?” Hương Xuân Lâu hỏi ngay chuyện khẩn, bỗng trợn mắt kinh ngạc ngó tấm vân phù[20] trầy trụa thê thảm trên người nam tử trọng thương kia. “Đây là ấn tín của Vân Kiệt Tông?”
Mị Hương trả lời công chúa:
“Núi Chân Dương hiện giờ đang có hai đệ tử ma đạo chiếm cứ, là Nguỵ Thuyết với đệ tử thân truyền của ông ta là A Hường sống trong nhà này!”
“Nhà này” đương nhiên chỉ gian nhà tranh lụp xụp đằng sau lưng bọn Vương Vi, Mị Hương nếu đã sống trong núi Chân Dương thì biết vài chuyện dưới chân núi cũng không gì lạ. Hương Xuân Lâu hãy còn bất động chưa phản ứng thì nam đệ tử Vân Kiệt Tông kia cố gắng mấp máy môi thốt với cô:
“Công chúa Thuỳ Vũ?”
Hoành Ti Thuỳ Vũ Xuân đang bàng hoàng không chỉ vì có môn đệ chính đạo biết thân phận mình mà cái tên Nguỵ Thuyết kia trùng với tên của quốc sư, sẽ không phải là cùng một người chứ?
*** LỀ Mị Hương 瞇 薌 Nguỵ Thuyết 偽 説 Oanh Long 轟 隆 * Đại Thư các 大 書 閣
**** CHÚ THÍCH [14] Bay (như chim) là phi 飛, xe (chỉ chung) là hiên 軒. Phi hiên 飛軒 nghĩa là chiếc xe có thể bay như chim, đồng thời là tên một loại phương tiện phi hành của giới nguyên sĩ (theo truyện). [15] 500 gram là một cân 斤. [16] Hai ngàn cân 斤 là một tấn 晉. [17] Trốn, tránh là độn 遁, dấu hiệu là phù 符. Độn phù 遁符 là một loại ứng phù chuyên dùng để đào tẩu (theo truyện). [18] Trong một ngày đêm có một trăm khắc, một khắc 刻 là 14,4 phút. [19] Xem chú thích “điền xích 田尺” ở chương 4. [20] Mây là vân 雲, vật để làm tin là phù 符. Vân phù 雲符 là thẻ bài ấn tín mà đệ tử thuộc Vân Kiệt Tông luôn mang bên mình để chứng minh thân phận (theo truyện).