Bữa nay sân Vọng Nguyệt mà mọi thường hay dùng tổ chức chiêu tài lại đông đúc, nhưng là vì chuyện thám bảo ở Không Đỗng sơn. Các môn sinh đủ điều kiện đã tập trung đầy đủ, đang thảnh thơi làm việc riêng: ngắm cảnh, tán chuyện, tỉ thí có trật tự, hoặc ngồi thơ thẩn vò lá mai già như hai anh em nhà nào đó…
Tứ bề sân là khung cảnh núi rừng nhàn tĩnh, không khí buổi sớm mai hơi se lạnh mà tươi mát, sương đọng gió mơn man, trên hai đầu bậc thang dài một lên điện Thừa Thiên một xuống cầu Nội Tỉnh là cặp chó đá được tạc theo văn hoá đất Lộc: cổ chúng đeo vòng kết từ trái vả, không có bờm mây, thay vào đó là vân mao xoắn và hàm mở nhe răng chứ không ngậm chặt. Các cặp chó đá này đều do Từ Hiếu vương tặng cho bản môn đã hơn trăm năm, quốc chủ nước Lộc hiện tại là cháu đời thứ ba của ông: Lộc Nhạc vương, mới lên ngôi khoảng tám năm, chưa từng cử sứ sang Thôi Vũ Môn lần nào mặc dù sơn môn có phái trưởng lão đại diện đến dự lễ lên xe của Lộc vương, tức lễ Thức Hoàng Hiên[1]. Xét theo chức phận thì Lộc Nhạc vương được hoàng đế nước Đất xưng là thúc phụ do có cùng họ, song về vai vế Lộc vương lại làm cháu gọi hoàng đế mẫu quốc là bác do cha của Lộc vương vốn là em trai họ hàng của ông. Nhưng nghe đâu mối quan hệ giữa tân Lộc vương và đương kim hoàng đế Địa quốc không được hoà hiếu cho lắm, kể từ khi tức vị đến nay thì Lộc Nhạc vương chỉ có một lần duy nhất triều kiến quốc hoàng chứ không phải mỗi ba năm một lần như lệ cũ.
Kiến trúc tổng thể của Thôi Vũ Môn từ ngoài vào trong, gồm cổng tam quan kiểu tứ trụ có tên riêng là Môn Tâm Quan, hành cung trung gian, cầu Nội Tỉnh bắc qua hồ sen vuông, bên trái hồ là vườn Vũ Lâm, bên phải hồ là bia di tích, qua cầu là sân Vọng Nguyệt, rồi tám mươi tám bậc thang lên điện Thừa Thiên, hành lang tả hữu của điện dẫn vào khu vực sinh hoạt của môn sinh như bếp chung, sân phơi thuốc, kho dụng cụ v.v Sau lưng điện Thừa Thiên là sân trong dẫn lên Tịnh Ngôn đường, hậu đường có ba lối đi chính: một lối tới mộ tổ khai sơn của Thôi Vũ Môn, một lối tiếp nối sơn đạo vòng vèo đến “ngõ” vào thôn cốc của hàng ngũ trưởng lão, một lối dành cho chúng đệ tử có nhiệm vụ chuyển hàng hoá từ dưới núi lên sơn môn, ngoài ra những lối mòn khác phải thạo đường mới khỏi lạc. Đừng nói tân sinh mới nhập môn mà ngay cả các đệ tử lâu năm đã mài không biết bao nhiêu đế giày trên sơn lộ, chỉ cần lơ là thiếu chú ý liền chẳng biết chỗ mình đứng có thuộc Thôi Vũ sơn nữa hay không! Thi thoảng thấy pháo hiệu vọt thẳng lên cao rồi toả ra, sau đó xuất hiện vài vệt sáng lượn vòng tìm người, chính là mấy trưởng lão trong môn xuất cốc đi dắt trẻ lạc về…
“Bống có gan bống, bớp có gan bớp! Đệ đừng lo thừa nữa, cứ thả lỏng đi!”
Hạc Cầm đạo nhân khều khều sư đệ mặt sắp thành than của mình, chính là Bàng Hạc lãn nhân đang dúm mày trừng hai củ mài trông rất chi vô tích sự bên dưới sân Vọng Nguyệt: thằng lớn ngồi nhẩn nha như nai gặm cỏ, thằng nhỏ thì hết bứt lá lại ngắm bướm bay nhìn ngây ngây dại dại, may mà hai đứa nó vừa tiến cảnh kịp lúc vào tối qua!
“Đều ‘tiệt hàn’ cả rồi, chắc chắn không bị nhỏ nào bóp vỡ tay nữa đâu!”
Biết sư huynh cố tình chọc mình, Bàng Hạc mới sầu trắng đêm đương nhiên không vui nổi song vẫn phải cải chính:
“Là ‘tuyệt hàn’ chứ không phải ‘tiệt hàn’, tối ngày huynh cứ bậy bạ vậy đấy! Thử hỏi làm sao dạy ra đệ tử nghiêm túc cho được?”
“Hề hề,” Hạc Cầm đưa tay vuốt bộ râu trắng cước thậm thượt mà bản thân vô cùng đắc ý, chẳng hề ái ngại câu trách cứ từ sư đệ, ngược lại dường hoài niệm vài việc vui vẻ. “Đệ còn nhớ hồi chúng ta mới nhập môn không? Hồi mà cùng nhau gói bánh ít cho thầy ấy, lúc đó…”
“Lúc đó huynh toàn xớ rớ kiểu gì mà bánh ướt nhẹp,” Bàng Hạc lắc đầu, ám ảnh. “Làm phải tốn công nấu lại nồi khác, còn bị ân sư rầy suốt! Tu nguyên không sợ lại sợ tu lò, chúng ta thăng đại cảnh giới còn dễ hơn huynh gói được cái bánh ra hồn!”
“Tu lò gì đâu, chúng ta là luyện bánh ít!” Nhớ lại vị thầy tính tình khó chịu của mình, Hạc Cầm vẫn rất ngán dù ân sư đã thệ thế nhiều năm.
Đầu đuôi mọi chuyện cũng vì sở thích của Đạo Thành chân nhân nằm ở món bánh ít gói lá chuối và tay nghề của hai đứa học trò.
Đạo Thành chân nhân vốn là sư huynh của Bách Đào, Sát Đào và Tướng Vân, song ông cũng là người duy nhất trong bộ tứ chưa đạt tới “đăng phong nhất thốn”. Thôi Vũ Môn do sư tổ của sư tổ của sư tổ của Đạo Thành lập nên, thành thử chức chưởng môn một thời từng do ông nắm giữ.
Đạo Thành chân nhân ưa bánh ít nhưng mỗi lần thưởng thức nhất định phải có đủ hai loại nhân là đậu xanh mặn và đậu phộng ngọt, vậy đó, cặp học trò của ông phân công nhau - lớn làm mặn nhỏ làm ngọt, lại còn khi dọn lên không được cố tình chia mâm riêng từng loại nhân mà cứ trộn lẫn để ông tự đoán. Cách đoán rất đơn giản: cầm vào hơi cứng là nhân đậu xanh, mềm thì là đậu phộng do phần nhân này trộn dừa sợi sẽ xốp hơn; cả Hạc Cầm lẫn Bàng Hạc đều dị ứng vụ này.
Thấy thầy bóp bóp cái bánh khiến hai người phập phồng sợ nó bể tại vì ông luyện Bát Đại Khí[2] chủ về vật công, có thể bóp nát kim khí[3] như bẻ bánh tráng vậy… Hơn nữa nguyên đính tiếp kỳ như ân sư cần chi động tác thừa, dùng thuật Thấu Kim Nhãn[4] nhìn xuyên vào trong lòng bánh liền biết rồi, thiệt hết hiểu nổi!
Cũng vì sự kiên trì muốn luyện mãn công pháp Bát Đại Khí mà Đạo Thành chân nhân trì trệ trên con đường tiến cảnh cũng như thăng đại cảnh giới, bởi những nguyên sĩ chủ tu vật công luôn thăng tiến chậm hơn lối tu thuần pháp công hoặc song luyện cả hai. Thiên về vật công thật sự là hướng đi khó khăn đối với nhân sĩ Văn Chương[5], mặc dù trong thực chiến sẽ mạnh hơn đối thủ cùng cảnh giới đôi chút. Giả hôm đó đấu cùng thiếu chủ tộc Lộc Ngạc là Đạo Thành chứ không phải Sát Đào thì kết quả sẽ khác rồi, nhưng khi ấy Đạo Thành chân nhân đã không còn nữa.
Tuy nhiên, nói đi cũng phải nói lại, so với sư đệ Bách Đào thì Đạo Thành chân nhân dễ thương hơn rất nhiều, gọi là khó chịu một cách ổn định chứ không khó chịu theo kiểu bất ổn. Bách Đào chưởng môn có một sở thích khác, mà thật ra bộ tứ cùng lứa của ông đều ưa một món tủ riêng, ví dụ như Sát Đào thích bánh tét và Tướng Vân thích bánh ống lá dứa nhưng cả hai chẳng yêu cầu cao, riêng Bách Đào lại đặt tiêu chí xuyên thủng mây xanh với món ruột của mình là nước mắm chấm bánh gật gù. Thẳng thắn mà bảo thì không ai trong sơn môn rõ về bánh gật gù, Tướng Vân sư thúc cho đó là bánh cuốn không nhân, Sát Đào lại thấy giống bánh ướt, còn Đạo Thành không biết nên không tìm hiểu nhưng ông gọi nó là bánh gục gặc.
Vấn đề chủ chốt nằm ở nước mắm ăn kèm với bánh, phải được pha theo tiêu chuẩn nào đó mới được gọi là ngon, là “chuẩn vị”. Bách Đào chân nhân vô cùng nghiêm túc với trình độ pha nước chấm, tới nỗi lúc bị mọi người đốc thúc việc thu đệ tử thân truyền đặng có dự phòng cho chức chưởng môn mai sau, Bách Đào thay vì tìm môn sinh có tư chất tốt thì lại mở cuộc thi nội bộ về pha nước mắm: ai làm được chén nước mắm ngon thì đậu!
Nhớ khi đấy, Tướng Vân sư thúc luôn là người bình tĩnh nhất trong mọi cuộc họp còn phải lên tiếng trước quyết định kì quặc của chưởng môn sư huynh:
“Pha nước chấm thì liên quan gì đến tu nguyên? Huynh muốn tìm đầu bếp riêng thì cứ tìm, sao lại tìm đệ tử làm đầu bếp?”
Bách Đào chân nhân lí luận như sau:
“Mấy đệ chẳng biết gì cả! Pha nước chấm là một công pháp rất uyên thâm, gồm cả ngũ tố: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Này nhé, chén đựng nước mắm nhất định phải là chén đá, tốt nhất là chén tạc từ đá Lanh vì nó giữ được độ mát của nước chấm, bánh nóng phải ăn với nước mắm lạnh như vậy mới hoà hợp âm dương, tuyệt đối không dùng nóng chấm nóng. Muỗng khuấy nước mắm nên là muỗng gỗ mít, muỗng gỗ khác cũng được nhưng không ngon bằng, đây là kinh nghiệm hơn một trăm năm của ta. Còn bản thân nước mắm nhất định phải cất đủ thời gian và bảo quản trong điều kiện tốt, cái này nói rộng ra tới mấy loại nên ta tạm lược qua, tóm lại không thể dùng thứ nước mắm chưa đủ tuổi hoặc pha muối quá nhiều, chỉ có mùi hão chứ chẳng có miếng thực chất nào cả! Những thứ gia vị thảo mộc thêm vào trong quá trình pha nước chấm cần được cân chỉnh rõ ràng, đây phụ thuộc vào sự từng trải, thành thục và tư chất phẩm vị của người pha, không phải cứ khuấy trộn linh tinh là được đâu! Nếu các sư đệ thấy hứng thú muốn tìm hiểu thêm thì vi huynh có soạn một cuốn ‘Ngư lộ cương mục[6]’, ghi chép đầy đủ mọi sự phong phú về nước mắm mà ta đã kinh qua, rất phù hợp để đọc lúc nhàn rỗi…”
Bấy giờ Hạc Cầm và Bàng Hạc đều có mặt cũng như hoàn toàn nghe hết đoạn “đạo lí về công pháp pha nước mắm” trên, song nếu hỏi bọn họ hiểu gì không? Thì xin thưa: không hiểu. Nhưng vụ thi pha nước mắm vẫn diễn ra thật, thí sinh là tất cả môn sinh hiện có của Thôi Vũ Môn, lên đến ba ngàn ba trăm ba mươi sáu thí sinh, may mà thi nội bộ chứ công bố ra ngoài chắc danh tiếng của sơn môn cũng “nồng nàn” thêm ít nhiều. Lại do có liên quan đến chức vị chưởng môn nên Đạo Thành chân nhân cũng khuyến khích hai đệ tử đang mài nghệ món bánh ít của mình tham gia!
Mỗi pha nước mắm thôi mà thi tận ba vòng, Hạc Cầm bị loại ngay vòng một còn Bàng Hạc dừng bước ở vòng hai, tới vòng ba hình như còn lại chưa tới trăm người. Sát Đào sư thúc và Tướng Vân sư thúc cũng bị kéo vào ban giám khảo chung với chưởng môn, Đạo Thành bế quan không màng thế sự, đợi thi thố xong xuôi hết thì ông mới xuất quan. Quán quân của kì thi độc lạ trên là một môn sinh tên A Thành, đồng thời là môn sinh duy nhất có xuất thân từ châu Mộc Tê vì châu ấy xưa giờ bài xích người tu nguyên, mà cũng chẳng ai nghĩ một ‘lẫm dư’ như hắn lại đậu. Đương nhiên như Bách Đào chân nhân từng lí giải, tư chất phẩm vị của một người chưa chắc tương đồng với tư chất tu nguyên, cuối cùng ông nhận A Thành làm đệ tử thân truyền. Về mặt tiến cảnh thì A Thành, nay là Bích Hãn trưởng lão, tuy chậm mà chắc, coi như cũng minh chứng được rằng: người pha nước mắm ngon càng tu nguyên ổn định, nước mắm và nguyên thuật về mặt nào đó cũng hội thông đạo lí với nhau, chỉ là một bên có mùi một bên không có mùi mà thôi.
Bích Hãn trưởng lão không chọn nguyên hiệu kiểu như “chân nhân” hay “đạo nhân”, ông chỉ lấy nguyên tự là “Bích Hãn” để tưởng nhớ quê nhà tại vùng duyên hải có sóng biển xanh bao la như màu ngọc bích. Xếp vai vế thì Bích Hãn là sư đệ của Hạc Cầm và Bàng Hạc, ngày thường rất ít nói mà chỉ âm thầm làm sự vụ thầy giao, sơn cốc nằm phía bắc dãy Thôi Vũ, ngay dưới cốc của chưởng môn, là một người tận tuỵ và trung thành nên Bích Hãn giành được sự công nhận cũng như kính trọng từ các đồng môn.
“Nhắc tới thì Tân Cố đâu rồi? Không phải huynh bảo bữa nay dẫn nó ra xem hai sư đệ chuẩn bị đi thám bảo sao?” Hồi ức của Bàng Hạc dễ đứt mạch, bởi nó toàn là chuỗi dọn hậu quả giúp vị sư huynh đầu óc đểnh đoảng, cùng nồi bánh ít nấu thủ công, xen kẽ thời gian tu luyện miệt mài.
“Ta tính khích nó một chút,” Hạc Cầm đáp, mắt xa xăm, “nhưng sáng nay kiểm kho thuốc trong dược thất, phát hiện hết rễ tễ nên ta bảo nó xuống núi đi mua bổ sung, dù sao cuối tháng nào chúng ta cũng phát thuốc trị bệnh vặt và cao chữa thương cho các lái buôn, nên cần đủ nguyên liệu làm cho kịp. Thời gian đối với nguyên sĩ chúng ta tựa hồ bao la song với họ thì hạn hẹp lắm, một buổi tĩnh toạ bằng mấy ngày đời thường, xoay qua xoay lại là hết tháng! Có người ta nhớ gặp mặt lần đầu tóc còn đen, lần thứ hai gặp thì lưng đã hơi khòm, lần thứ ba là đầu bạc trắng rồi cũng không còn lần thứ tư nữa…”
Sư huynh của Bàng Hạc việc chi cũng xuề xoà, được mỗi làm thuốc cứu người là tận tâm, nhưng mà sao hôm nay Hạc Cầm lại có vẻ ai hoài nhiều thế?
Hai huynh đệ chẳng kịp phiếm chuyện thêm nữa vì chưởng môn vừa xuất hiện trên điện Thừa Thiên rồi, thân là trưởng lão bọn họ cũng phải hội cùng Bách Đào chân nhân trước toàn thể môn sinh đang tụ tập dưới sân Vọng Nguyệt, các trưởng lão khác cũng đã đến để khích lệ học trò của mình, trừ những vị còn đang bế quan. Tương tự mọi lần xuất phát khác, Bách Đào chưởng môn dặn dò hàng hậu bối đôi điều trước chuyến đi thám bảo:
“Đầu tiên, bổn môn xin chúc mừng một trăm ba mươi lăm đệ tử đã lọt vào đội thám bảo lần thứ ba mươi chín của phái ta. Thứ hai, về địa điểm thám bảo sắp tới là Không Đỗng sơn ở đảo Lôi Công phía tây nam châu Chúc Thuỷ, các đệ tử sẽ đến điểm tập kết thông qua dịch phương đài trong sơn môn, lần này chủ xướng vẫn là Vân Kiệt Tông, đặc biệt còn xuất hiện một phái mới lần đầu tham gia việc thám bảo này là Thần Hành Môn. Thứ ba, mỗi đệ tử gia nhập đội thám bảo đều được cấp một túi sáu gang, ba phù lam, ba phù hoàng; riêng đội trưởng sẽ nhận thêm một minh luy, hai phù cam; đội phó cầm lộc bàn và mỗi người đều phải giữ ngư phù trong người để liên lạc với nhau khi cần. Đây là ba điều cơ bản cho chuyến thám bảo, công việc cụ thể sẽ được trưởng lão các phái phân phó khi chúng đệ tử đến điểm tập kết. Cho nên điều thứ tư đồng thời là điều quan trọng nhất: tuyệt đối không tự ý rời đội của mình vì bất kì lí do gì, không đi lẻ và không nhặt những vật khả nghi, phải đề phòng người ngoài trà trộn phá hoại!”
Dừng một lúc để các môn sinh kịp tiếp thu, chưởng môn lại hỏi:
“Các trò còn gì thắc mắc nữa không?”
Hầu hết đều im lặng, vài môn sinh xì xào với nhau song chẳng thấy ai đứng ra thưa thốt vấn đề chi cả. Bách Đào chưởng môn đợi chốc lát, không đệ tử nào lên tiếng, ông mới gật đầu bảo:
“Nếu các trò đã rõ cả rồi thì những vật cần mang theo mà ta vừa nói lúc nãy, sẽ được A Thành bàn giao cho từng người tại trước cổng vào dịch phương đài. Chuyến thám bảo là cơ hội kinh lịch và tìm kiếm kì duyên của mỗi môn sinh, các trò nhớ nắm bắt lấy nhưng cũng nên cẩn thận, đừng quá tham lam! Chúc mọi người một chuyến đi hanh thông thuận lợi!”
Bách Đào vỗ tay ba tiếng, là dấu hiệu giải tán, Bích Hãn cùng hai vị trưởng lão khác tức thời bay xuống sân Vọng Nguyệt, dẫn tất cả đệ tử đang có mặt di chuyển tới dịch phương đài được đặt tại khu vực bia di tích bên phải hồ sen vuông. Bàng Hạc ngó theo bóng lưng của hai củ mài lúi húi cố tình bọc hậu cả đám, thần tình có chút rầu rĩ cũng lại bồn chồn, Bách Đào chân nhân biết nỗi lòng của sư điệt bèn lên tiếng an ủi:
“Tính hai đứa nó không dám mạo hiểm quá mức cũng là điều tốt, mặc dù Ngạc Thật sở hữu thể Tích Bạc[7] rất hiếm thấy, song nó có thể tiến vào tuyệt hàn bằng với thời gian mà người thường tu luyện, chứng tỏ đã rất cố gắng! Có câu ‘cần cù bù thông minh’, cũng lại có câu ‘thông minh hại thông minh’, lại có câu ‘thật thà là cha quỷ quái’, đều nhắc tới lấy thực chất mà thắng khôn lỏi, cũng hàm ý lấy bền bỉ đấu với vận mệnh! Bàng Hạc sư điệt chớ lo rầu chi, hai đứa đệ tử của sư điệt quả có thực tài đấy!”
Bàng Hạc cúi đầu không nói gì, Hạc Cầm đứng bên kia nghe tới đoạn “lấy thực chất mà thắng khôn lỏi” thì hơi chột dạ vì cốc mình có một đứa ngược lại, nhưng duyên phận mà, đâu phải lúc nào cũng được như ý. Bách Đào chưởng môn phất tay áo về lại Tịnh Ngôn đường, tiếp tục tham cứu mật tịch, Đạo Thành sư huynh và Sát Đào sư đệ đều đã rời đi, còn Tướng Vân bận làm khách nhà người khác chẳng mấy khi hồi sơn mà lại ở chơi lâu, thành thử ông còn có một mình gánh vác trách nhiệm của tổ khai sơn. Phải chăng người ta sống càng lâu thì cuộc đời càng thêm tịch mịch?
Những vị trưởng lão khác cũng hồi cốc hoặc đi làm việc của mình, sân Vọng Nguyệt vẫn chẳng vắng môn sinh hoặc vội vã hoặc thong thả tới lui qua lại. Chốn núi rừng buổi sáng tuy yên tĩnh, song cái tất bận trong lòng người ở núi rừng hẵng len lỏi trên bậc đá mòn vết chân đi, dưới bóng cây che bao mái đầu, và thấm vào từng hàng chữ trên bia đá ghi dấu tiền nhân…
Ngạc Thật lấm lét rù rì với anh cả:
“Hay chúng ta đến đó rồi kiếm chỗ trốn tới hết thời gian thám bảo được không? Em bắt đầu ơn ớn rồi…”
“Sao em cứ bàn lùi hoài thế?” Ngạc Nhiên nhăn mày. “Cắc ké như chúng ta đi cho có tụ thôi chứ việc chính toàn mấy trưởng lão ra tay cả, huống hồ Vân Kiệt Tông là bên khởi xướng việc thám bảo, phái người ta thế mạnh người đông, chúng ta đi theo hưởng ké được cái gì thì hưởng chứ tranh giành có lại họ đâu!”
“Nhưng mà em nghe nói mỗi lần thám bảo như vậy đều có đệ tử các phái một đi không về, ngay cả Vân Kiệt Tông cũng không ngoại lệ…”
“Thì coi như xui rủi đi! Số xui rủi dù chui nhủi chỗ nào cũng hoàn xui rủi thôi, hai anh em mình cứ tò tò theo sau đội trưởng là ổn thoả…”
“Về vấn đề chia đội…” Giọng Bích Hãn trưởng lão đều đều vang lên, cắt ngang màng nhĩ của anh em họ Ngạc đang mải rì rầm. “Vì đợt này chúng ta có một trăm ba mươi lăm người nên sẽ chia năm người một đội, như vậy tổng số đội là hai mươi bảy và sẽ có hai mươi bảy đội trưởng. Danh sách các đội trưởng đã được chưởng môn kiến nghị với sư phụ mỗi trò, trò nào được nêu tên thì tiến lên trước đứng ở đây…”
Chuyện này hơi bất ngờ, đa phần môn sinh có mặt chưa ai biết, tạm thời nhốn nháo một phen. Bích Hãn trưởng lão cao giọng bảo:
“Các trò trật tự! Công việc của đội trưởng là cầm bản đồ và minh luy, dẫn đường cho cả đội đến khu vực được phân công kiểm tra, đồng thời là người cấp báo đầu tiên nếu xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Đội trưởng có quyền chọn đội phó cho mình, các đội viên còn lại là gia nhập tự nguyện, đội nào dư người thì tự chia bớt qua đội còn thiếu. Giờ ta sẽ bắt đầu đọc tên các trò được chưởng môn tin tưởng giao nhiệm vụ dẫn đội, đầu tiên: Ngạc Thật!”
Ngạc Thật đang thật kinh ngạc, đứng bất động tựa hồ giữa hạn chờ mưa, đồng môn nhanh chóng điều tra ra gã, bởi hai anh em họ Ngạc này lúc nào cũng đi chung với nhau, như hình với bóng. Bích Hãn trưởng lão nhắc lại lần nữa:
“Ngạc Thật?”
“Co, có có đệ tử…”
Ngạc em cũng không biết mình vạch đám đông đi lên trước bằng cách nào, lúc gã hồi hồn lại đã là mạng đầu tiên đứng xếp hàng trong nhóm đội trưởng hai mươi bảy mạng rồi, kế bên là Bích Hãn trưởng lão đang tiếp tục đọc danh sách những đội trưởng còn lại. Gã hoang mang ngó từng đồng môn khác lần lượt lên sau mình, thế là gã có chết không nhỉ?
Ngạc Thật bất giác giơ tay trái của bản thân ra trước mặt, lần bị thằng nhóc tên Vương Vi đó bóp nát cả bàn tay vẫn khiến gã ám ảnh, thằng nhóc đó nếu gia nhập ma đạo nhất định sẽ trở thành một đại ma đầu không kém gì lão bất tử của Thiên Mộc Đô. Kinh khủng thay, đứa nhóc nhà quê mà có thể mạnh đến thế!
Ngạc Thật bình thường đã thiếu tự tin, thuở lăn được vào sơn môn học vận nguyên gã đã thấy nản lòng, trong khi anh mình tiến cảnh rất nhanh thì nguyên uyên của gã cứ như lá của cây mắc cỡ liên tục bị đụng chạm ấy: mới vừa thấy ngoi lên ngon lành là lại cụp đầu xuống ngay, thử bao nhiêu lần đều giống hệt, nếu không phải Ngạc Nhiên kiên trì muốn ở lại thì gã cũng bỏ đi quách! Thà làm nghề bậy bạ gì đó sống qua ngày còn đỡ tủi hơn, đã khổ tâm rồi còn bị lão sư phụ đồ tể ép luyện công không ngừng, mắng sa sả cái gì mà “đồ đũng quần không có ý chí, ngay cả trái bí trên giàn còn có tương lai hơn mi”, bí trên giàn chín rồi lại chả bị hái ăn à? Ai mà cần cái tương lai như vậy!
Đương lúc Ngạc em liên miên tố khổ chính mình thì Bích Hãn trưởng lão vô tư không biết gì cả, phân phó dàn đội trưởng đội thám bảo rằng:
“Giờ các trò đều là đội trưởng, bắt đầu chọn đội phó cho mình đi, cảm thấy ai thích hợp thì cứ nói ra, dù người nào được chọn cũng không được phản đối!”
Người khác thì chưa biết chứ ai cũng thừa biết là Ngạc Thật sẽ chọn anh mình, cho nên đội phó của gã chính là Ngạc Nhiên mà mới nãy hãy còn xúi đứa em cứ tò tò bám lưng đội trưởng thì sẽ ổn cả!
Một đội năm người còn thiếu ba, tiếp theo là phần dàn xếp chia nhân sự đồng đều cho từng đội, đội của Ngạc Thật thêm ba mạng nữa: Giả Củ bên cốc Xương Sông là đệ tử của Hoả Du trưởng lão, Sầm Lai bên cốc Chẩm Quan Tăng của Điển Tê Ao trưởng lão, Thuận Tòng bên cốc Nghịch Phản của Ngã Trung Lí trưởng lão. Trong ba thành viên mới thì anh em họ Ngạc chỉ quen mỗi Thuận Tòng vì tên này ưa làm mối tới lui buôn vặt, còn Sầm Lai nghe nói vốn thuộc dòng của Sát Đào chân nhân đáng lẽ ở bên cốc Sát Đào nhưng do chưa có trưởng lão nào tiếp quản cốc ấy, thành thử họ Sầm phải chuyển qua học với Điển trưởng lão. Điển Tê Ao cùng Bàng Hạc lãn nhân là hai trong số các trưởng lão mà đám môn sinh sợ nhất, nghe tên cốc thôi đã thấy rờn rợn rồi!
Số là hồi mới biết tới cốc Chẩm Quan Tăng, hai anh em họ Ngạc tuy ít chữ song cũng lấy làm lạ chưa rõ hàm ý đầu đuôi thế nào, bấy giờ có Thuận Tòng đang nhập bọn leo núi hái thuốc chung, Tòng giải đáp:
“Nói lái lại là hiểu!”
Ờ thì Chẩm Quan Tăng lái lại là Chẳng Quan Tâm! Thử hỏi sao mà yên tâm cho được? Chưa hết, từ vụ trên suy ra thì hiệu của chủ cốc nếu cũng thử lái lại sẽ thành Để Tao Yên, thế đã đủ hú vía chưa… Còn Sầm Lai không chừng chính là Sai Lầm dù hình như tên này của gã là tên thật, và đã có từ trước khi nhập cốc Chẩm Quan Tăng rồi!
Giả Củ mặt mày rất sáng láng, chỉ gây dị ứng là ưa cười, không có chuyện gì vui cũng cười tươi rói mà lại không chịu nói lời nào, mãi khi Ngạc Thật hỏi thăm tới gã thì gã mới chịu mở miệng:
“Đệ họ Diệp, chính danh là Giả Củ, lá lốt[8] rất là ngon! Nhà đệ ở đất Phù Lưu, miếng trầu[9] là đầu câu chuyện! Đệ hiện là đệ tử dưới trướng Hoả Du trưởng lão bên cốc Xương Sông, cốc của thầy rất gần cốc Dã Vị của Hạc Cầm trưởng lão đó ạ, đều dân dã thân thương như nhau hết! Xin hết luôn ạ!”
Những người còn lại trong đội không ai bồi tiếng nào, cảm thấy màn tự giới thiệu này nói dễ thương cũng có dễ thương, nói khách sáo cũng là khách sáo. Ngạc Thật thường ngày toàn đi theo sau anh, giờ tự dưng đổi lên đứng đầu một đội nhóm, dẫu rằng chỉ có năm người nhưng ngoài anh mình ra gã có thân ai mấy đâu, ba tên còn lại coi như biết mặt qua loa, giao tiếp giữa mọi người vẫn khá gượng gạo mà chẳng có ai hoạt ngôn, thật khiến gã bối rối…
May mà thời điểm khởi hành đã đến, đội của Ngạc Thật xuất phát đầu tiên, từng nhóm năm người biến mất trên dịch phương đài, mãi khi hai nhóm cuối cùng chuẩn bị lên đài thì Bàng Hạc lãn nhân đột nhiên xuất hiện, dáng vẻ vội vã bất thường, khiến Bích Hãn trưởng lão cũng phải ngạc nhiên hỏi:
“Bàng Hạc sư huynh có việc gì sao?”
“Cái thằng,” Bàng Hạc vừa thốt vừa ngó quét qua hiện trường: không kịp nữa rồi, hai củ mài chả thấy đâu cả! Nhưng lão vẫn vặn hỏi sư đệ Bích Hãn. “Hai đứa trong cốc huynh đi rồi à?”
“Đúng vậy, đội của hai sư điệt đi đầu tiên…”
Bích Hãn không kịp chốt câu, Bàng Hạc đã xoay người bay thẳng luôn rồi!
Chưa đầy khắc sau, bấy giờ dịch phương đài trống không, hai mươi bảy đội đều đã lên đường hết thì một vệt sáng đáp xuống trước cổng đài, là Hạc Cầm đạo nhân.
“Hạc Cầm sư huynh!” Bích Hãn chào hỏi.
Hạc Cầm dường cũng tới kiếm ai đó:
“Bích Hãn sư đệ, đệ có thấy Bàng Hạc tới đây không?”
“Dạ có, huynh ấy mới rời đi hồi nãy, hình như là vì…”
Lần này Bích Hãn cũng chửa kịp hoàn thành nốt câu nói, Hạc Cầm nghe bóng nghe gió liền gật gật đầu rồi hoá thành vệt sáng vọt đâu mất, nhanh như lúc đến.
“Chẳng lẽ địa điểm tập kết có thay đổi gì ư?” Bích Hãn lẩm bẩm. “Mà nếu thế thì ân sư phải thông báo rồi, các trưởng lão khác cũng đâu có đến?”
Chẳng rõ duyên cớ ra sao, Bích Hãn bảo hai trưởng lão còn lại:
“Chúng ta đi thôi, về cốc của thầy xem thế nào!”
Bích Hãn vừa dứt lời, hai trưởng lão kia liền tự biến mình thành phiến giấy chui tọt vào tay áo ông, hoá ra họ đều là nhân phù nhưng tu vi bằng một nửa chủ nhân, do chính trưởng lão Bích Hãn luyện chế. Công phu luyện phù như ông, ngay cả Vân Kiệt Tông cũng rất hào hứng, nhưng Bích Hãn nào phải hạng thấy lợi quên nghĩa, ngay từ trước trận “trảm thập nhị anh hào” ông đã một lòng với lựa chọn sơn môn của mình!
Dịch phương đài hốt nhiên quạnh hiu, gì gì môn sinh, gì gì trưởng lão, chớp mắt chẳng còn bóng dáng, trận hướng dưới đài cũng ẩn tàng, trở về dáng vẻ bàn thạch đơn sơ nhưng chạm khắc phù điêu tinh xảo. Nhớ năm nao nó từng là chỗ đến đi của không ít lứa đệ tử Vân Kiệt Tông, nay đà đổi chủ mà những người xưa cũng chẳng mấy khi gặp lại nữa rồi.
*** LỀ A Thành 阿 成 (âm Hán) Bích Hãn 碧 瀚 (âm Hán) Diệp Giả Củ 葉 假 蒟 (âm Hán) Điển Tê Ao 典 虀 坳 (âm Hán) Hoả Du 火 油 (âm Hán) Lộc Nhạc vương 簏 嶽 王 (âm Hán) Ngã Trung Lí 我 中 裡 (âm Hán) Sầm Lai 岑 來 (âm Hán) Từ Hiếu vương 慈 孝 王 (âm Hán) Thuận Tòng 順 從 (âm Hán) * Cầu 梂 (âm Nôm) Nội Tỉnh 內 省 (âm Hán) Cốc Chẩm Quan Tăng 谷 怎 冠 曾 (âm Hán) Cốc Nghịch Phản 谷 逆 反 (âm Hán) Cốc Sát Đào 谷 察 陶 (âm Hán) Cốc 谷 (âm Hán) Xương Sông (âm Nôm) Đảo Lôi Công 島 雷 公 (âm Hán) Đất 𡐙 (âm Nôm) Phù Lưu 芙 畱 (âm Hán) Điện Thừa Thiên 殿 承 天 (âm Hán) Không Đỗng sơn 空 洞 山 (âm Hán) Môn Tâm quan 捫 心 關 (âm Hán) Sân 𡓏 (âm Nôm) Vọng Nguyệt 望 月 (âm Hán) Thần Hành Môn 神 行 門 (âm Hán) Vườn 𡑰 (âm Nôm) Vũ Lâm 雨 淋 (âm Hán)
**** CHÚ THÍCH [1] Cúi đầu, dựa vào đòn xe để tỏ lòng tôn kính là thức 軾, vua là hoàng 皇, loại xe có mui trước cao sau thấp và có rèm che gọi là hiên 軒. Thức Hoàng Hiên 軾皇軒 là nghi lễ cuối cùng trước khi chính thức trở thành tân vương của người kế vị ở một số nước chư hầu: thế tử sẽ đến vịn đòn xe của tiên vương và cúi đầu thưa ba tiếng rồi mới vén rèm bước lên xe, ngụ ý kế thừa ngai vàng đúng với di nguyện của vua trước. Do xe này thường được ban bởi vua của mẫu quốc cho các vua chư hầu nên mới dùng chữ “hoàng”, tầng ý nghĩa sâu xa hơn là việc tân vương tức vị cũng thuận theo ý của hoàng đế mẫu quốc, làm nổi bật lòng trung thành của chư hầu đối với mẫu quốc (theo truyện). [2] Phá, chia là bát 捌, to lớn là đại 大, đồ dùng là khí 器. Bát đại khí 捌大器 nghĩa là phá vỡ những vật dụng to lớn, đồng thời là tên một công pháp dồn phóng nguyên năng dành cho nguyên sĩ sở hữu thể chất đặc biệt (theo truyện). [3] Kim loại là kim 金, đồ dùng là khí 器. Kim khí 金器 tức những vật dụng làm từ kim loại, hợp kim. [4] Xuyên suốt, lọt qua là thấu 透, kim loại là kim 金, mắt là nhãn 眼. Thấu Kim Nhãn 透金眼 nghĩa là con mắt nhìn xuyên qua kim loại, đồng thời là tên một công pháp giúp nhìn thấu suốt vật cản kể cả tường đồng, vách sắt (theo truyện). [5] Vằn trên vải vóc là văn 紋, văn tự viết thành bài là chương 章. Văn Chương là tên một trong những chi thuộc nhân tộc, thích mặc vải vóc nhiều lớp, chuộng văn từ thơ ca, là chi đông dân nhất của đại tộc Người (theo truyện). [6] Cá là ngư 魚, chất lỏng có hương là lộ 露; ngư lộ 魚露 là chất dịch trích từ cá, tức nước mắm. Giềng lưới hoặc phần chủ yếu là cương 綱, mắt lưới hoặc các phần con là mục 目; cương mục 綱目 là tên loại sách được biên soạn chia thành phần lớn gồm nhiều mục nhỏ, nhằm tiện tra cứu về một chủ đề hoặc lĩnh vực nào đó. [7] Chứa, gom là tích 積; mỏng, ít là bạc 薄; hình trạng, bản chất của sự vật là thể 體. Tích bạc thể 積薄體 nghĩa là bản chất gom chứa mỏng ít, đồng thời là tên của một kiểu thể chất đặc biệt (theo truyện). [8] Lá lốt có tên chữ là giả củ 假蒟. [9] Trầu không có một tên chữ là phù lưu 芙畱.