Thương Sinh Quái Khách

Chương 13: Chuẩn bị



Trong khắp đông, tây ngũ bộ châu, Vân Kiệt Tông luôn là một cái tên lớn mặc dù môn đệ dưới trướng chủ yếu hoạt động ở đông ngũ bộ, đồng thời là ngọn cờ và một trong những trụ cột của chính đạo tại khu vực này. Đầu nhập Vân Kiệt Tông cũng không khó như nhiều người lầm tưởng, bản tông mở sân chiêu tài kiểu truyền thống để chiêu mộ môn sinh, nếu có khác thì bởi số dự sinh tham gia quá đông nên mỗi hội chiêu tài đều kéo dài khoảng một đến ba tháng. Oanh Long và Thừa Hư cũng gia nhập Vân Kiệt Tông dưới cách thức này, hai người không phải anh em ruột mà ban sơ là người cận thôn, qua bận xất bất xang bang lại đùm bọc nhau mà sống, rốt sau thân thiết tựa anh em sinh chung một nhà.

Thừa Hư biết đến tu nguyên nhờ một lão ăn mày không xin tiền ở thôn Đồng Điếu nước Cù Nhang châu Chúc Thuỷ, bản thân lại có năng khiếu tiếp thu nhanh, tựu trung Oanh Long chỉ thua anh gã điểm này. Nhưng vào hội chiêu tài năm đó, bảy vị nguyên lão gồm luôn tông chủ đương nhiệm đều muốn giành lấy Thừa Hư, bấy giờ còn gọi là Ngô Bấc, về phường thị mà bản thân họ chủ quản. Đến giờ Thừa Hư đã có vị trí trên Anh Bảng[1] và hiếm khi tụt hạng, còn Oanh Long vẫn ngụp lặn trong hàng ngũ “dân phường bình thường”, dẫu vậy tình cảm giữa cả hai không hề sứt mẻ. Cũng nhờ có Thừa Hư luôn giữ được phong độ xuất sắc nên thường đứng ra bảo lãnh cho em trai, nay là sư đệ khác phường thị với mình.

Người ngoài nhiều phần chưa biết, tại sao trong tông phái lại có phường thị?

Phải, nguồn gốc của Vân Kiệt Tông khá đặc biệt, tổ khai sơn Nguyễn Cũ xuất thân từ một thợ rèn kiếm, sau khi thành danh thì lập phái cùng sáu huynh đệ kết nghĩa khác đồng là thợ nghề; bấy giờ tại châu Mộc Lan có một làng bách nghệ gọi là Bá Nghệ phường, nền tảng các phái Vân Kiệt Tông, Thanh Dị Tông, Nhã Vận Tông, Không Thủ Đảo và Thập Anh Phường đều phát xuất từ phường này, gồm luôn phái Trảm Ước Phường bên ma đạo vốn là tàn dư li khai sau cuộc nội biến của Thập Anh Phường nữa. Trong bảy người khai sinh tông Vân Kiệt có một người chỉ nguyện làm khách, và có một người là nữ nhưng tổ Nguyễn lại xưng “sư huynh” chứ không xưng “sư tỉ”. Đời sau trong tông thường xuyên xuất hiện tình huống đồng môn thông hôn với nhau nên vấn đề vai vế hết sức nhức đầu, hầu hết mỗi đệ tử chỉ nhớ mấy vị trưởng lão đồng hàng và trên dưới sư phụ mình một bậc, thêm một vị tông chủ nữa là chật cả sọ rồi!

Như Oanh Long vừa phải ghi mặt chép tên hàng tá trưởng lão cùng lứa với sư phụ mình, kiêm thêm bên sư phụ của Thừa Hư nữa thành thử nhiều gấp bội, gã phải dùng tới chiêu xăm “danh sách” lên hai bắp tay mới ổn thoả…

Như vậy Vân Kiệt Tông được dựng nên với cái tên mang nghĩa “vân tập hào kiệt”[2], tổ Nguyễn theo lệ nghề bèn chia các dòng trong tông thành phường thị chứ không chia phong chia đường như các phái khác. Phường thị của tổ Nguyễn lấy danh Đại Tinh Thao tức chòm sao lớn tên Thao nằm gần cực bắc, năm phường thị còn lại gồm Hắc Tinh, Hồng Tâm, Kim Hàng, Hạp Đồng và Bích Động. Về sau phường thị Kim Hàng tách đôi thành Kim Thuỷ và Lưu Hàng như hiện tại, khó hiểu nhất là tuy tổ phường Bạch Kim Lưu vốn thân nam tử nhưng đệ tử nối dòng lại toàn nữ, thế mới dẫn đến ngộ nhận rằng hai phường thị trên chỉ tuyển nữ môn sinh. Riêng vị tổ phường duy nhất là nữ năm xưa đã lập ra Hồng Tâm phường thị sau này, bà rất giỏi xạ nghệ đồng thời tinh thông công pháp Bách Chuyển Tinh Di[3], do đó đệ tử trực thuộc phường của bà đều đặt mục tiêu tương tự, còn noi truyền thống thuở đầu gọi đệ tử nữ theo danh xưng nam, ví dụ như “sư thái” đổi qua “sư thúc”, “sư muội” đổi thành “sư đệ”. Ngoài Hồng Tâm thì các phường thị khác xưng hô dựa trên thói thường, không thêm thắt gì khác lạ, phường chủ tức chức nguyên lão còn tông chủ là đồng nguyên lão của phường thị mình.

Trở lại thời điểm Oanh Long tham gia sân chiêu tài, gã cũng không quá tệ song lại sở hữu thể chất Phích Lịch[4], kết quả tuy đã thông qua thử thách vòng thi nhưng chẳng nguyên lão nào tỏ ý muốn nhận gã vào phường mình... Thừa Hư thì chọn vào Bích Động trước đó, Oanh Long lại muốn được ở chung với anh, tình hình thật sự khó khăn. Cuối cùng, nguyên lão của Hắc Xích phường thị lên tiếng phá vỡ khoảng im lặng kéo dài:

“Để nó vào phường của ta đi!”

Nguyên lão mặc hồng bào cười hỏi:

“Sư huynh xưa nay chẳng phải rất kén chọn sao? Huynh nhắm đứa nhỏ này trụ được bao lâu trong phường của huynh vậy?”

Nguyên lão mặc giáp vảy đen sì đáp:

“Còn hơn là không cho nó cơ hội! Có cơ hội mà chẳng nên cơm cháo gì thì nó chẳng trách ai dược!”

Nhờ mấy lời đó, Oanh Long không phải trắng tay ra về, thật ra cũng chưa đến nỗi thế, nếu Vân Kiệt Tông không nhận gã thì ít nhất sẽ giới thiệu gã với các phái khác thuộc hàng ngũ lân bang. Bởi vì tông này kết giao rất rộng, đã đậu bên Vân Kiệt thì chẳng sợ thiệt thòi, hiềm nỗi nếu muốn đầu nhập phái khác thì người ta đâu chạy qua sân chiêu tài bên đây làm gì!

Nguyên lão mặc giáp đen sì đó tốt tính dẫu rằng nóng tính, huý của ông là Nguyên Quy và ông luôn dùng tên huý mọi lúc, trong cả tông thì Hắc Xích phường chủ nổi tiếng về ba chữ “làm”: làm thẳng, làm thật, không làm thay. Sau khi trở thành sư phụ của Oanh Long rồi, ông cũng chẳng trở nên dịu dàng chút xíu nào, hễ gì không hài lòng là sư phụ la ầm lên như sấm nổ bất kể địa điểm, Oanh Long mang tiếng lỗ tai cây mà còn phải sợ.

Thể chất Phích Lịch có chu trình nguyên khí hỗn loạn, khiến gã gặp cả tỉ khó khăn khi vận nguyên so với nguyên sĩ thông thường, lại không thích hợp với quán tinh giới thuộc tố vân phải chuyển qua lôi. Vân Kiệt tông không áp đặt đệ tử việc tu luyện thuộc tố nhất định nào, song ban sơ cả tổ khai sơn cùng năm tổ phường khác đều chủ tu thuộc tố vân thành thử đây là thuộc tố truyền thống cũng như phổ biến nhất trong tông. Ngoài ra có tổ Uy Lao tuy nhận làm khách nhưng cũng truyền lại công pháp thuộc tố lôi cho đời sau, hầu hết chẳng ai trong phái kể cả tông chủ các thế hệ trước biết nhiều về tổ Uy Lao, tuy nhiên do ông có thể hợp trận với sáu vị còn lại nên hậu lai suy đoán phỏng chừng tổ Uy Lao tu luyện thuộc tố thuỷ. Gần đây Oanh Long phụ giúp lập công với Thừa Hư trong một chiến dịch càn quét ma đạo tại châu Chúc Thuỷ quê nhà, được tông chủ ban thưởng kiếm Đồ Sơn có thể tính như một pháp bảo. Ngờ đâu mới làm chủ nó mấy tháng thì bị nứt, gã đoán mình sắp phải hứng cơn thịnh nộ từ vị sư phụ tốt tính mà nóng tính của mình…

Vừa thể chất Phích Lịch, vừa tu luyện thuộc tố lôi, lại do mấy lời qua lại ban đầu giữa các nguyên lão, cộng thêm thành tích “tình cờ phá hoại” dày đặc của mình, Oanh Long bị đồng môn đàm tiếu không ít, chưa kể các đệ tử phái khác nữa. Lần nọ lúc đang làm nhiệm vụ chung, gã vô tình nghe được một nhóm mấy đệ tử nhỏ của Nhã Vận Tông kháo nhau:

“Chẳng nên cơm cháo gì đâu,
Trở về đốt bãi trồng dâu nuôi tằm,
Giang sơn phó mặc hàng mâm[5],
Sấm chớp ì ầm phó mặc thiên lôi.”

Tất nhiên đối phương chẳng nêu đích danh ai song chi tiết ám chỉ lại đầy đủ, chưa kể Oanh Long sinh ra ở thôn Tang Thậm chuyên nghề dệt lụa nữa, tựu trung gã thấy hơi chạnh lòng mặc dù có thể đó chỉ là một bài ca dao truyền miệng mà thôi. Thêm nữa tông Nhã Vận thiện về âm luật, đệ tử toàn dân hay chữ, đánh nhau có thể thua chứ cãi nhau chắc chắn thắng… Oanh Long không muốn cùng họ đôi co lí lẽ, lấy sở đoản của mình va chạm với sở trường của người ta, gã cũng nản kiểu nhiệm vụ phối hợp thế này lắm nhưng lại không thể một mình nhận nhiệm vụ được nên đành chịu, như cái nhiệm vụ thám bảo chung ở đảo Lôi Công gã cũng đã từ bỏ vì chuyến truy vết tên đệ tử ma đạo họ Nguỵ này!

Nguỵ Thuyết gốc ở châu Đại Bạch, từng là đệ tử phái Đại Khuy Thừa bên đó trước khi gia nhập Thiên Mộc Đô, lão cũng không quá nổi danh trong giới tu nguyên ngoài việc bị phái kình địch treo thưởng và có tên trong Thập Nhị Sử[6] dưới trướng đại ma đầu Mạc Khô Sầu, họ Mạc đồng thời là đô chủ của Thiên Mộc Đô. Phái Đại Khuy Thừa tuyên bố trung lập song vẫn treo lệnh truy nã Nguỵ Thuyết vì tội phản sư và ăn cắp, mãi sau khi Nguỵ Thuyết kiếm được chân ở Thiên Mộc Đô thì lệnh truy nã kia mới gỡ bỏ, lẽ chừng là do chưởng môn Đại Khuy Thừa không muốn đối đầu trực tiếp với họ Mạc. Phái Ngũ Diệu Môn luôn kình địch với Thiên Mộc Đô từng phái sứ giả sang Đại Khuy Thừa tặng lễ vật nhằm “kết giao”, hành động kế tiếp của họ là lập tức “thay mặt” Đại Khuy Thừa treo thưởng “đại lạc” của Nguỵ Thuyết với giá một diệu linh đan! “Đại lạc” nghĩa là “cú rơi lớn” nhằm ám chỉ cái chết của ai đó với thái độ mỉa mai, một kiểu từ lóng trong giới nguyên sĩ mà người thường chẳng hiểu rõ thâm ý, vậy nên họ từng diễn giải “đại lạc” thành “niềm vui lớn” trong một cuốn sách hư cấu viết về tu nguyên giới, quả thật là nhầm lẫn cười ra nước mắt!

Tổ chức Thập Nhị Sử luôn bảo toàn đủ mười hai người dưới mười hai bí danh không đổi: Hoả Linh Hồ, Hoàng Kim Hổ, Bạch Ngọc Trạc, Tử Lộ Hiết, Đế Hồng Ngô, Thanh Cát Độc, Âm Dương Hạc, Thuỷ Tinh Thiềm, Tuyết Trủng Mã, Huyễn Vụ Lị, Bích Đính Ngư, Phong Tật Bức. Mười hai cái tên ấy bắt nguồn từ “thập nhị linh thú” của mẫu quốc Diêu Hàng, là quê hương thứ hai mà Mạc Khô Sầu tự nhận, đồng thời là nơi đặt đại bản doanh của Thiên Mộc Đô. Mười hai người này đích xác gồm những ai thì chỉ có Mạc Khô Sầu biết, ngay cả các trưởng lão và đệ tử thân cận nhất với đô chủ cũng mù tịt, nhiệm vụ chính của Thập Nhị Sử chưa xác định rõ ràng song nếu đã được lập đội riêng thì hẳn đóng vai trò quan trọng với Thiên Mộc Đô.

Trong mười hai bí danh, Nguỵ Thuyết là Âm Dương Hạc, tin tức đây bị rò rỉ do lão bất cẩn sử dụng ngư phù liên lạc với đồng bọn, để lộ ra ba chữ “lửng, đại, bạch”. Bởi “hạc” là tên chữ chỉ một loài lửng chó, “âm” chủ về lạnh và sắc đen tức chữ “đại”, “dương” chủ về nóng và sắc trắng tức chữ “bạch”, hơn nữa “đại bạch” lại trùng âm với tên châu Đại Bạch vốn là quê nhà của lão; ba chữ so ba chữ có nhiều điểm tương đồng về nghĩa, nên ngay sau khi nắm bắt được thông tin này thì phe chính đạo đã phát động điều tra. Kết quả các thám báo phát hiện Nguỵ Thuyết luôn hành động với nhiều sự hỗ trợ vượt quá thân phận giả của lão chỉ là một đệ tử bình thường không chức sự, có lần lão còn cầm theo một mảnh của pháp bảo Đại Báo Kính đi làm nhiệm vụ do đô chủ phân phó, mà mảnh pháp bảo đó lại luôn nằm trong tay Mạc Khô Sầu, cần thêm bằng chứng thừa nào nữa không?

Thừa Hư cùng sư tỉ Hồng Ngô bên Hồng Tâm phường thị liên thủ với nhóm đệ tử của phái Không Thủ Đảo truy vết họ Nguỵ gần năm năm, lão ra vào châu Mộc Tê khá thường nhưng chủ yếu mua bán độc trùng với dân Hoăng quốc, chẳng tỏ ra đang ấp ủ việc gì lớn. Năm nay Nhã Vận Tông lại tổ chức hội Luận Võ Thí Văn[7] thường niên, Thừa Hư bị trưởng bối điều đi tham dự mất, Oanh Long không thể chính thức thay anh mình tiếp tục nhiệm vụ dang dở nên bí mật tự thân hành tung, gã bám theo họ Nguỵ dễ dàng mà không bị phát giác khiến gã rất nghi ngờ lẽ đâu lão ma này tính giả vờ để câu ngược lại gã? Qua mấy tháng lẩn nấp noi dấu, Oanh Long biết được A Hường vừa trở thành đệ tử thân truyền của Nguỵ Thuyết, song theo cách nào đó mà nói, không hoàn toàn do thằng bé tự nguyện…

Oanh Long tỉnh hẳn rồi, nhờ bình Lưu Hương Thuỷ của Thuỳ Vũ công chúa, tuy vậy thương thế của gã chỉ bớt một nửa, Nguỵ Thuyết dẫu chìm trong đám thuộc hạ toàn tai to mặt lớn của Thiên Mộc Đô nhưng vẫn là một Sử, đồ giữ mạng của lão không những nhiều mà thứ nào cũng âm hiểm đúng bản chất ma đạo. Vết thương trên người Oanh Long có ba chỗ nghiêm trọng ở ngực, lưng và xương ống trái, đánh đổi cho việc gã phá được ba món thông linh cụ của họ Nguỵ: chuỷ thủ hình đầu lâu, phi phiêu bán nguyệt và viên bi sắt khắc khuôn mặt khóc cười. Hai cái kia thì Oanh Long chưa rõ gốc tích, riêng viên bi sắt vốn tên Bi tiếu châu[8] là một trong bốn mươi tám viên trùng danh của cựu ma đầu Phong Hoá. Phong Hoá là người bên tây ngũ bộ được Mạc Khô Sầu ngỏ ý chiêu mộ nhưng lão ta từ chối, sau khi tung hoành một thời gian ở ngoại hải châu Mộc Lan thì bị phe chính đạo hội quân tiêu diệt. Di vật của Phong Hoá ngoài phần lớn do các phái chính đạo thu thập rồi thanh tẩy thì tản mác nhiều nơi, chắc Nguỵ Thuyết tình cờ có được.

“Cây kiếm này rất tốt,” Vương Vi nhận xét thanh Đồ Sơn đang gác dựa vào vách đất trong nhà A Hường. “Nhưng trông không giống pháp bảo.”

Oanh Long đã được công chúa Thuỳ Vũ tóm lược tình hình từng xảy ra tại đây, cũng biết Cực Đồng là dân tu nguyên theo lối “tự học” là chính, nhiều điều chưa biết, mới đáp dài dòng:

“Nếu tính về bản chất thì nó là quán tinh giới đã thông linh với chủ, một khi ta đột phá được ‘nghịch sở cảnh’ và trở thành nguyên sĩ cảnh giới đại thông thì nó sẽ tiến hoá cùng với ta, trở thành pháp bảo thật sự!”

“Pháp bảo còn có cấp bậc nữa ư?” Họ Vương hỏi.

“Tất nhiên là có, thấp nhất là cấp một, cao nhất là hơn cấp mười, còn phổ thông thì khoảng cấp năm, cấp sáu.”

“Nguỵ Thuyết có pháp bảo cấp mấy?”

“Cấp sáu, tên là Lục lạc la luân[9].” Oanh Long đổi một khối kỳ nam để có được thông tin này từ Thạo Tin các.

“Huynh có cái nào tương tự để đánh ngang tay với lão không?” Vương Vi trực tiếp đề cập vấn đề nan giải nhất.

“Không có!” Oanh Long nhẹ lắc đầu, hơi áy náy nhìn sang Mị Hương ngồi gần đó. “Dương cô nương có một thông linh cụ do tổ tiên truyền lại rất cứng rắn, tuy pháp bảo của Nguỵ Thuyết không phá huỷ được nhưng cũng chẳng ngán ngại nó lắm!”

Vương Vi đánh giá sơ bộ rằng về mặt học thuật thì pháp bảo vừa chia cấp vừa chia loại, không phải cùng cấp sẽ tương đương nhau, thông linh cụ và quán tinh giới thì có thể tiến hoá theo chủ, muốn thuật cho rành mạch chắc chắn chẳng đơn giản xong trong một buổi. Vẫn là chuyện nào cần kíp thì phải kịp tìm ra cách giải quyết, hơn là cố truy rõ ngọn ngành, họ Vương rất nghiêm túc hỏi:

“Vậy làm sao để chế tạo pháp bảo cấp sáu?”

“Ta không biết!” Oanh Long đáp ngay, bảo gã là đấu sĩ chứ không phải nguyên sĩ cũng được, nhưng ngoài kinh nghiệm chiến đấu ra gã chẳng rành mấy việc khác.

“Ta nghe quốc sư nói,” Hương Xuân Lâu chợt lên tiếng. “Trong các loại pháp bảo thì huyết chú pháp bảo dễ thăng cấp nhất, với điều kiện là người luyện ra nó phải có căn bản vững chắc và ý chí kiên định hơn người.”

“Huyết chú pháp bảo luyện thế nào?”

Oanh Long hơi nhăn mày khi nghe Cực Đồng hỏi công chúa câu trên, bên Mị Hương cũng thoáng căng thẳng, vốn Oanh Long một mực giữ khoảng cách với họ Nguỵ do lão hơn gã một tiểu cảnh giới nên chưa rõ nội tình của Hoành quốc, tuy nhiên trong quá trình theo dõi thì Nguỵ Thuyết khá thường ở núi Chân Dương, thi thoảng bay qua Hoăng quốc trao đổi đồ vật, chứ chẳng thấy đi đâu khác. Quốc sư hiện trong triều nước Hoành cũng tên Nguỵ Thuyết? Chưa rõ trùng tên hay sao song như công chúa mô tả thì hai họ Nguỵ này nhiều điểm chẳng giống nhau, có điều giả lão ta muốn diễn kịch lừa người cũng không phải bất khả thi, thêm nữa Nguỵ quốc sư dạy công chúa tu nguyên từ công pháp vận nguyên thông thường nhất nên chưa thể kết luận được gì, rối ren chính ở điểm này vậy. Thành thử Oanh Long muốn làm “người mù rờ voi” cũng không được, chỗ biết thì chưa đủ, chỗ chưa biết càng không đủ, bây giờ chỉ đành đối phó với Nguỵ Thuyết núi Chân Dương trước vậy.

“Là dùng máu của người luyện chế làm vật chủ dẫn, ngoài ra còn cần thêm nguyên liệu tinh khiết và lõi nòng cốt để định hình pháp bảo,” Hương Xuân Lâu rụt rè giải thích, thật ra mượn danh quốc sư thế thôi chứ cô bé đọc được những điều này trong quyển phổ ở Đại Thư các. “Lõi nòng cốt quyết định độ bền và cứng cáp của pháp bảo, cấp của pháp bảo chỉ thể hiện trình độ của người luyện nên nó và khả năng phối hợp công pháp theo thuộc tố, cho nên pháp bảo luyện thành từ quán tinh giới thường có độ cứng cao hơn so với pháp bảo luyện từ nòng cốt khác.”

Công chúa nói xong rồi, mọi người đồng im lặng, Oanh Long thấy Cực Đồng bày vẻ trầm tư, không nhịn được mà thốt:

“Đệ có hiểu gì về thuộc tố tu luyện không?”

Dựa vào quan sát của gã, Vương Vi dường không thể hiện thuộc tố nguyên năng, tình huống này thường xảy ra với những nguyên sĩ tự mày mò hoặc sở học thiếu thốn. Nguyên năng không có thuộc tố thoạt nhìn thì tự do song khó mạnh mẽ được vì công pháp phi thuộc tố trong giới tu nguyên thật sự đã bị đào thải gần hết, vấn đề nữa là làm gì có pháp bảo nào không thuộc tố! Lõi nòng cốt chính là thuộc tố của pháp bảo, bất kể là đơn tố hay đa tố đều phải có, dù huyết chú pháp bảo cũng cần bắt đầu từ lõi nguyên liệu nào đó, đã là nguyên liệu tự nhiên tất sẵn sở hữu thuộc tố rồi.

“Có nghe đại huynh của đệ nói qua,” Vương Vi trả lời gã. “Tố gồm có năm đại là kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Mỗi đại tố lại có ba chi tố: kim gồm quý, từ, ngọc; mộc gồm thụ, phong, tảo; thuỷ gồm hãn, băng, vụ; hoả gồm diễm, lôi, quang; thổ gồm địa, sa, thạch. Giữa năm đại tố có các tính chất: tương sinh, tương khắc, phản sinh, phản khắc và quân bình.”

Nhóc này biết cũng nhiều đấy chứ! Oanh Long càng thắc mắc hơn:

“Thế sao đệ không tu luyện một thuộc tố làm gốc?”

“Đại huynh dạy đệ lấy thân làm gốc, không được lấy vật làm gốc!”

Họ Vương đáp xong, quay sang cô bé lùn hỏi tiếp:

“Phải ở cảnh giới nào mới luyện ra được pháp bảo cấp sáu?”

Hương Xuân Lâu khó chịu đáp:

“Là đại thông, ngươi có biết nếu đột phá được đại thông sẽ thăng đại cảnh giới vượt qua cả nguyên sĩ hay không? Đừng nghĩ quẩn nữa!”

Cô bé cũng cảm thấy bế tắc với chí hướng của Cực Đồng, rõ ràng là đang cố làm việc vượt quá khả năng, ích lợi gì chứ?

“Ta sẽ chế luyện một pháp bảo,” quả nhiên Vương Vi không bỏ cuộc, y nhớ từng nghe Ái Nhân kể một đoạn tương tự quá trình hình thành huyết chú pháp bảo này, tất nhiên buộc trả một cái giá khá đắt nhưng với Vương Vi mà nói, cần gấp thì làm ngay, khỏi phải mặc cả. “Nguyên liệu tinh khiết chắc dùng nước Lưu Hương Thuỷ là đủ điều kiện rồi!”

“Cực Đồng công tử!” Mị Hương luôn kín tiếng nãy giờ, cất tiếng với y. “Sao công tử nhất định muốn dùng pháp bảo cấp sáu để đánh bại Nguỵ Thuyết? Chúng ta chẳng đang chờ cứu binh sao?”

“Cô nương nói rất đúng!” Họ Vương không hề ngừng lời. “Xin hỏi bà chủ, cả hoàng thúc lẫn quốc sư của cô có sở hữu pháp bảo hoặc vũ khí lợi hại tương tự để đánh bại Nguỵ Thuyết không?”

“Ngươi…” Hương Xuân Lâu hơi giận, song vẫn đáp. “Không có, pháp bảo cấp sáu có phải cải bó xôi đâu, ngươi tưởng dùng tiền mua được chắc? Vân Kiệt Tông không nói, ngay cả mấy môn phái tầm trung cũng chỉ mỗi môn chủ là đủ khả năng sở hữu cấp pháp bảo cao như vậy!”

Cải bó xôi hay còn gọi là rau chân vịt vốn sinh trưởng xứ lạnh, mùi vị của nó rất ngon nhưng đất đai nước Ngang không trồng được, phải nhập từ nước khác và chỉ mùa xuân mới có, giá mua trong xứ rất rất đắt, tầm ba đồng tiền cổ cho một lạng. Người ta nói cái tên “bó xôi” là bởi vị của nó khi luộc sơ ngon như món xôi và thường được bày bán theo bó, hay cường điệu nữa là ví von rau bó xôi sánh với các loại rau thông thường khác thì như xôi so với cơm, tóm lại mọi cách giải thích trên đều ám chỉ giá trị ẩm thực của loại rau này, ngoài ra dân gian còn tin rằng nó có tác dụng cầm máu.

“Không phải ta không tin Vũ công với quốc sư,” Vương Vi dịu giọng vì thấy cô bé bức xúc ra mặt, “nhưng nếu Nguỵ Thuyết là một ma đầu lợi hại như Oanh Long huynh đã nói qua, mọi người hợp lực cũng không thể đánh bại lão thì sau đó thế nào? Ta muốn chuẩn bị một chiêu tối hậu, không hết cách thì không dùng, một chiêu mà chắc chắn Nguỵ Thuyết không tránh thoát được!”

“Đệ nghĩ ra cách gì?” Oanh Long cũng không nghĩ ra, đương nhiên tiếp tới vẫn phải đánh bởi tin tức mà gã truyền về bổn phái thường hay bị bỏ ngoài tai, trông chờ đồng môn ứng cứu trong khi lén làm nhiệm vụ thay người khác thật khó ôm hy vọng. Mà tin báo về cũng gần ba ngày rồi, ngư phù chưa thấy hồi âm, trong phái ngoài Thừa Hư ra chắc chẳng ai tin lời gã.

“Tẩm độc vào vũ khí!” Vương Vi đề xuất một phương án rất thông thường, mặc dù y biết nguyên sĩ có khả năng kháng độc ở mức nào đó, thành thật mà nói bị trúng độc chẳng phải chuyện dễ chịu gì.

Bày kế ám sát cũng không hề là điều họ Vương chủ trương, y muốn một trận chiến mặt đối mặt hơn, như năm xưa cùng lão khỉ già nọ đánh nhau, dẫu rằng đối phương dẫn trước về sức mạnh, Vương Vi cũng không nghĩ tới việc bày mưu đánh lén, bởi đó không phải bản chất của y, càng không phải phong cách của y. Do vậy lần này, họ Vương mới hẹn trước rằng chẳng đến lúc cùng cực thì chẳng dùng tới kế ấy, y càng tin bản thân có thể thực hiện được kế hoạch này, đương nhiên cũng cần sự hỗ trợ từ “đồng minh” hoàn cảnh.

“Bà chủ,” Vương Vi nói với cô bé lùn, “ta sẽ giúp bà chủ đánh bại lão ma đầu đó, bà chủ có thể trả công trước bằng cách giúp ta luyện một pháp bảo mới được không?”

Hương Xuân Lâu biết tên của cái tên Cực Đồng này phải diễn giải là “cực kì bốc đồng”, lại sợ y tưởng mình hẹp hòi, thử cãi lí một phen:

“Rồi ngươi tính lấy gì làm lõi? Mà có luyện được cũng chỉ là pháp bảo cấp một, dùng nó đấu với một lão ma cảnh giới đại thông, khác gì ‘lấy búa vàng ròng gõ đinh sắt luyện’ đâu?”

“Chẳng phải bà chủ nói huyết chú pháp bảo có thể thăng cấp nhanh sao? Vả lại đã đánh trực diện đâu mà sợ?”

Hương Xuân Lâu chẳng nói thêm gì cả, mím môi phùng má, biểu cảm viết ra bốn chữ “ta, tin, ngươi, chắc”. Vương Vi phải già miệng bảo:

“Binh pháp có câu ‘mãnh tướng sợ tay thiện xạ’, cô từng thấy ai dùng cung đánh giáp lá cà chưa và có đội quân nào mà không cần cung thủ chưa?”

Mãi bà chủ nhất mới chịu đáp lại:

“Ngươi muốn chế cung?”

“Từa tựa thế, nhưng phải giấu được, không để lão biết!”

Oanh Long với Mị Hương nghe hai thiếu nam nữ còn lại thảo luận mà chẳng hiểu mối quan hệ giữa đôi bên là gì: Cực Đồng gọi công chúa là “bà chủ”, công chúa không kêu ra vai vế song kiểu nói chuyện thì giống ngang hàng nhưng rõ ràng thiếu niên kia là thường dân. Tuy nhiên kế hoạch phục kích giữa trận có vẻ khả thi, Oanh Long thử gẫm một chút, vấn đề là cho dù ám toán bất ngờ cũng chưa chắc làm Ngụy Thuyết trọng thương, vả lại về lý thuyết thì huyết chú pháp bảo có thể thăng cấp mau song muốn từ cấp một lên thẳng cấp sáu thật không thể nào…

“Vậy là bà chủ đồng ý?” Vương Vi sắp đạt được thoả thuận “mượn nước” sau bận lí luận trên.

“Bình của ta cũng không còn nhiều nước lắm đâu, chỉ cho ngươi mượn ba giọt thôi!” Hương Xuân Lâu chủ động ra giới hạn, chữa thương cho Oanh Long đã tốn hết hai giọt, ước chừng trong bình chỉ còn sáu giọt nữa thôi.

“Ba giọt quá ít, thêm hai mới đủ!”

“Vậy cạn cả bình của ta luôn rồi, ngươi tìm cách khác đi!”

Khi tình hình dường bế tắc, Mị Hương lại xung phong giải vây:

“Tịch hàn tê[10] của tôi có sợi tơ trong lõi toả ra khí ấm xua được cái lạnh, cũng tính là nguyên liệu tinh khiết, có thể giúp Cực Đồng công tử một phen!”

Oanh Long nghe vậy thì cau mày, mím môi không bàn vào.

“Đa tạ Mị Hương cô nương,” Vương Vi cảm kích nói, tuy chưa rõ tại sao trên mặt Mị Hương có vết phỏng nhưng ắt hẳn liên quan tới hai thầy trò ma đạo kia vì trông còn rất mới, nếu y đã phải dựa nhờ đến người khác tất không thể xong việc liền phủi mông đi luôn. “Sự giúp đỡ của cô nương hôm nay, ta sẽ nhớ suốt đời không quên!”

Mị Hương thoạt tiên là ngạc nhiên, lông mi của chi Địch Dương gấp đôi chi Văn Chương, khi chớp mắt gây cảm giác xao động lạ thường, dù cho trợn trừng cũng không lộ ra vẻ hung dữ nào. Nàng người dê chợt ngó qua Oanh Long một cái, đúng lúc gã cũng đang trông sang cô, hai người vô cớ chạm mắt liền vội chuyển hướng nhìn sang chỗ khác. Mị Hương nói tiếp với Vương Vi:

“Pháp bảo không thể luyện thành ở đây, gần chân núi có một hang luồn thông với mạch nước ngầm, nguyên khí nơi đó trong sạch linh động, thích hợp chế luyện pháp bảo, để tôi dẫn công tử đến đó. Còn về độc, bản thân Nguỵ Thuyết cũng luyện độc trùng nên các loại độc phổ thông dù với liều lượng lớn cũng không gây đủ ảnh hưởng với ông ta…”

“Ta định dùng hạt cam thảo dây, còn gọi là quỷ mục thảo,” Vương Vi vốn đang mang sẵn trong người, loạt hạt này màu đỏ có vết bớt đen, về thẩm mỹ thì rất bắt mắt nên hay được xỏ thành chuỗi đeo tay, nuốt cả hạt nguyên vỏ thì không sao nhưng lượng chất độc bên trong một hạt đã đủ độc chết một người trưởng thành, sau khi được bào chế cô đặc thành dạng khô rồi bổ sung phụ gia thì hiệu quả còn nhanh chóng hơn nữa. Mặc dù loại cây này có thể được sử dụng hạn chế để chữa bệnh nhưng nó nổi tiếng về mặt tác hại nhiều hơn, họ Vương bày rõ thêm về ý đồ của mình. “Ta không cho là độc có thể hạ sát lão, nó chỉ gây suy yếu nhất thời thôi, vì vậy ta nghĩ quan trọng nhất chính là kế hoạch tác chiến giữa mấy vị nguyên sĩ, việc này phải nhờ đến bà chủ và Oanh Long huynh thảo luận thêm…”

Từ hệ thống phân cấp bậc mà công chúa từng nói, Vương Vi hiểu bản thân chưa được tính là nguyên sĩ, y có thể không tham chiến nhưng sẽ dựa vào thông tin mà A Hường chắc chắn tiết lộ cho thầy của gã biết, rằng họ Vương là một đối tượng dễ dàng khiến Nguỵ Thuyết chủ quan để y tìm được cơ hội ám toán. Tất nhiên Vương Vi vẫn mong rằng mình không cần ra tay, vì đến mức phải dùng chiêu tối hậu thì tình hình khá tệ rồi, nhỡ họ Nguỵ cũng có viện binh phía sau ắt cơ sự hỏng bét, mất nhiều hơn được còn đỡ, không khéo lúc đó sẽ thành đê vỡ còn thêm lở đất.

“Nhưng ngươi tính lấy gì làm lõi?” Hương Xuân Lâu rất thắc mắc, từ lúc còn ở đồn Mê đến tận giờ, Cực Đồng gần như chỉ có mỗi bộ đồ trên người, đừng nói y muốn dùng con dao rựa của chính nhà A Hường đem đi luyện pháp bảo!

Chẳng ngờ đối phương đáp:

“Đó là bí mật.”

“Bí mật gì chứ?” Công chúa chưng hửng, càng không chấp nhận tình trạng lấp lửng. “Chúng ta chẳng phải đang cùng một phe sao? Ngươi muốn làm những gì cũng phải nói rõ, chỉ mỗi ngươi biết thì mọi người phối hợp với nhau kiểu gì đây?”

Vương Vi trả lời:

“Bà chủ chắc từng nghe câu ‘nói trước mất linh’, nhưng ta đảm bảo sẽ chuẩn bị xong trước lúc hai bên giao chiến, cốt cho Nguỵ Thuyết thấy mặt, lão ắt hẳn chẳng hề kiêng dè ta và sẽ tập trung đối phó với Vũ công và quốc sư cùng Oanh Long huynh. Sau đó nhóm ba người dưới nguyên sĩ chúng ta rút lui khỏi trận tiền, có thể bị A Hường đuổi theo nhưng khả năng này không cao, ta cũng không tin Nguỵ Thuyết có thể một chấp ba mà vẫn ung dung được, dù gì A Hường đã biết xài pháp bảo nên khả năng lão sẽ để hắn lại trợ chiến. Tiếp đó nếu tình huống bất lợi xảy ra là Nguỵ Thuyết áp đảo được phe quốc sư thì họ cần dụ lão trục hậu đến khu vực nhiều góc khuất, chúng ta nấp sẵn gần đó liền tìm cách ra tay, lúc ấy phải tuỳ cơ ứng biến. Thiết nghĩ việc chọn địa điểm chiến trường mới quan trọng nhất, đánh trong núi là sân nhà của hai thầy trò lão thì chúng ta thất thế, còn kéo đánh ra ngoài thì phải di tản dân thường từ trước để tránh thương vong, có điều nếu làm ra động tĩnh này lại lộ mất kế hoạch…”

“Phải đánh vào trong núi, không có cách nào khác!” Oanh Long chẳng kiên nhẫn chờ Cực Đồng phân tích hết, chặt ngang vào. “Về chuyện ứng phó lão thì đệ cứ yên tâm, ta đã có kinh nghiệm rồi, cộng thêm việc quốc sư và Vũ công đều chủ về pháp công thì chúng ta có thể áp dụng chiến thuật đánh luân phiên. A Hường không tham gia là tốt nhất, tuy rằng đệ ấy rất khó cứu vãn nhưng vẫn chưa đến mức phải tận diệt… Nói chung vẫn phải bắt giặt bắt vua trước, Nguỵ Thuyết cầm đầu chuyện này thì giải quyết lão xong là mọi việc sẽ ổn thoả ngay!”

Vương Vi không nhiều lời nữa, công chúa thì tâm tư giây lát rồi cũng lấy ra chiếc túi thêu cất giấu Lưu Hương Thuỷ trao cho y, lặng lẽ như mẹ gả con gái chẳng thêm lời nào. Mị Hương biết đến lúc rồi bèn đứng lên dẫn đường cho Cực Đồng tới nơi mà cô nghĩ là thích hợp để luyện chế pháp bảo, trước khi đi lại đưa cho Oanh Long một gói thuốc nhỏ. Phần Oanh Long thì gã chỉ gật đầu với Vương Vi, không khí hơi trầm xuống bởi thời gian bàn luận đã qua, kể từ giờ chỉ còn hành động.

Thông tin mà Oanh Long cung cấp từ cuộc tra thám của mình có ba điểm mấu chốt: thứ nhất Nguỵ Thuyết hiện chỉ có A Hường là đệ tử, ngoài ra không còn tay chân nào khác; thứ nhì lão từng đánh bại và nhốt Oanh Long trong hang động chỗ thầy trò lão tu luyện nên gã nắm được địa hình nơi đó; thứ ba là Mị Hương ban đầu bị lão cậy mạnh đuổi đi sau lại phát hiện Tịch hàn tê trên người cô nên muốn đoạt lấy, Mị Hương kiên cường không giao ra nên bị lão giam trên núi trước thời điểm Oanh Long đến. Mị Hương cho biết A Hường không thực sự làm chủ được Mộc đô phiến và đó là một pháp bảo cấp hai nhưng lõi nòng cốt của nó chứa tạp chất, không cần bôi độc cũng chứa độc rồi, còn loại độc được dát ngoài rìa quạt tên là “phù thiêu”, với người thường sẽ gây bỏng nghiêm trọng dẫn tới hoại tử. Cái tên Mộc đô phiến vốn dựa vào hình dáng của pháp bảo mà đặt tên, không phải tên riêng gì cả, tựu trung nó có thể là “sản phẩm phụ” của một món pháp bảo khác nhưng chắc không phải Lục lạc la luân. Công pháp thuộc tố phong thì A Hường cũng chưa thuần thục, tên là “Đại Nghĩ”[11] dành cho đệ tử nhập môn của Thiên Mộc Đô, ở mức thuần thục thì “Đại Nghĩ” là một đòn tấn công với nhiều lưỡi dao gió, mỗi lưỡi dao gồm các lưỡi dao nhỏ hơn gom tụ lại nên sức phá hoại của nó rất cao, ngay tới cấp bậc như Nguỵ Thuyết hoặc các trưởng lão Thiên Mộc Đô cũng hay sử dụng đòn cơ bản này.

Và chuyện kinh khủng nhất là thực ra cha mẹ của A Hường đã bị Nguỵ Thuyết hại chết từ lâu, biến di thể của họ trở thành hai “quỷ lỗi[12]” mà không để A Hường biết, mục đích của lão nhằm khiến A Hường tin rằng cha mẹ gã đang cố giam giữ con trai mình. Mặt khác họ Nguỵ tiêm nhiễm vào đầu A Hường về cái gọi là “bậc cha mẹ lý tưởng” mà gã đáng mơ ước, quá trình lừa gạt này kéo dài tầm ba năm chứ không phải mới đây. Nguỵ Thuyết còn tặng cho A Hường pháp bảo Mộc đô phiến và dạy gã một số phương thuật nhỏ trước khi chính thức nhận làm đệ tử để lấy lòng tin, cũng do A Hường chỉ có một mình ở nơi héo lánh lại sống chung với “cha” và “mẹ” do Nguỵ Thuyết điều khiển, một mực gây hiểu lầm nên cuối cùng A Hường đánh mất bản tâm, trở thành như hiện tại. Bởi thế nên cặp quỷ lỗi đó bị trúng đòn Mộc đô phiến liền mau chóng tan rã, phần vì Nguỵ Thuyết không quá đầu tư cho hai “con rối” mà lão xác định sẽ sử dụng ngắn hạn ngay từ đầu, quỷ lỗi vốn là thi thể rỗng nội tạng được cho ngậm một loại hoàn đan làm đông chắc phần da thịt và dán thêm phù che đi xú khí.

Vương Vi từng hỏi Mị Hương, rằng cô cảm thấy có cách nào thuyết phục A Hường quay đầu hay không? Mị Hương bảo việc ấy rất khó đảm bảo.

Vốn dĩ hai ông bà cụ sanh được con mọn nên thương yêu A Hường lắm, gia đình họ lại sống xa thôn xóm, thành thử thường quây quần bên nhau, thuở nhỏ A Hường từng gặp cô lúc chơi lạc trong núi, là một đứa trẻ rụt rè và sợ bóng tối, khóc tu tu vì không tìm được cha, mẹ. Mị Hương đã dẫn A Hường xuống khỏi núi để rồi phát hiện ra song thân của gã cũng đi lạc nốt: bận không thấy A Hường khiến hai ông bà cụ liều mạng cầm đuốc leo núi trong đêm để kiếm con… Sau đó cô phải trở lên núi tìm đưa họ về nhà. Nhưng A Hường của bây giờ, nếu cha, mẹ gã còn sống chắc cũng chẳng thể nhận ra đây là con trai họ nữa rồi.

Riêng Oanh Long có cái nhìn khác hơn, gã cho rằng A Hường do thiếu bạn bè đồng lứa nên cảm thấy cô độc, thiếu niên mà, ai lại chẳng khao khát được tung tăng bên ngoài thế giới rộng lớn với bao nhiêu điều mới mẻ chưa từng biết đến!

Tuy gã không đồng tình với suy nghĩ đã bị méo mó của thằng bé nhưng cũng thông cảm phần nào: A Hường năm nay mười ba nhỏ hơn gã bốn tuổi, khi Nguỵ Thuyết nhốt gã vào cũi than xích phù “cấm xuất[13]”, nhân lúc sư phụ vắng mặt A Hường đã hỏi gã tù nhân của thầy rằng chính đạo khác ma đạo thế nào? Thiên Mộc Đô ở đâu còn môn phái của Oanh Long là ở đâu? Tại sao gã lại gia nhập chính đạo, người của chính đạo tu luyện những gì, có vui hay không? Vô vàn câu hỏi như thế, của một đứa trẻ tò mò, từ nhỏ đến lớn chẳng biết gì ngoài cha mẹ và dãy núi đá sát nhà. Mặc dù tỏ ra né tránh không muốn trả lời khi Oanh Long hỏi về cha mẹ mình, A Hường vẫn muốn biết có phải bậc “cha mẹ thật sự” sẽ cho con mình tất cả, kể cả tính mạng? Sẽ đáp ứng mọi nguyện vọng của con cái dù phải đánh đổi cả bản thân họ? Nếu con cái muốn làm gì đó thì “cha mẹ thật sự” sẽ luôn ủng hộ hết mình, không hề dị nghị hoặc ngăn cản hay không?

Những “mệnh đề” trên đều do họ Nguỵ tuồn vào đầu thằng bé, khuyến khích nó đòi hỏi vô lí và không phân biệt đúng sai, chủ yếu vì bản thiện của một người đều nằm ở “hiếu nghĩa” nên Nguỵ Thuyết muốn giết chết bản thiện của A Hường, muốn khiến một đứa trẻ làm ra việc đại nghịch không thể quay đầu. Như người đã lỡ tay nhúng chàm dù sau này có hiểu thông và hối hận thì cũng bị quá khứ ám ảnh dằn vặt khó thể nỗ lực thoát khỏi, hầu hết đệ tử ma đạo đều rơi vào hai trường hợp: một là vấy máu không hề thấy sai, hai là dần thấy sai nhưng ngại làm lại thế nên cứ tiếp tục trượt dài, đến chết mới thôi.

Đôi lúc Oanh Long không thể đáp lại hết với A Hường, chỉ cảm thấy đứa trẻ này bị một lão già ma đạo lừa gạt, dẫu đã thối nát cả ngọn lẫn thân song phần rễ biết đâu còn ráng chữa được? Sau đó Nguỵ Thuyết trở lại núi Chân Dương khoảng hai lần, Oanh Long bị lão giam trong động phủ tầm hai tháng, quãng mà lão đi lâu nhất, A Hường trở nên thân thiết với gã hơn vì thấy gã có thể nói chuyện rất nhiều với mình. Dẫu vậy Oanh Long vẫn không thể thuyết phục thằng bé hiểu ra, rằng lão sư phụ “tốt bụng” của nó kì thực chẳng có miếng tốt lành nào trên người. Khổ nỗi, lời của Mị Hương thì A Hường nhất định không tin, lần đi lạc lúc nhỏ gặp được cô nó cũng đã quên mất, chỉ nhớ trong núi sát nhà có một con dê cái rất lớn mà thôi, vả lại cũng đã lâu không thấy con dê đó nữa rồi!

Tuy cả Oanh Long và Mị Hương đều chẳng nhắc đến chi tiết này, song Vương Vi ngờ rằng một lão ma như Nguỵ Thuyết lại bỏ ra ba năm bày mưu tính kế chỉ để gạt một đứa trẻ mồ côi bái mình làm thầy, ắt A Hường phải tiềm tàng năng lực gì đó hơn người. Ái Nhân từng bảo có một số đối tượng bẩm sinh đã nhạy bén với loại thuộc tố nào đó, nếu tu luyện công pháp khớp với thuộc tố mẫn cảm sẽ trở nên thông tuệ rất mau, người thường tốn mười bước thì y chỉ tốn một bước. Nhưng bản thân họ Vương là người có tư chất bình thường nên chẳng hiểu lắm về mấy trường hợp đặc biệt kia, ngay cả Ái Nhân cũng chỉ nhận xét rằng thiên phú lớn nhất của Vương Vi là “quyết đoán”, còn lại thì tự nỗ lực mới thành tựu. Có câu “rượu ngon bất luận be sành, áo rách khéo vá hơn lành vụng may”, đúng vậy, Ái Nhân không xem trọng “sáng dạ” hay “sắc bén”, gã chỉ quan tâm đến sơ tâm vốn thiện và sự kiên trì, dựa vào vị trí hiện tại của Ái Nhân thì lời này của gã chẳng ai cãi được. Còn đối với Vương Vi mà nói thì y luôn tin đại huynh của mình vô điều kiện, vì y biết Ái Nhân không bao giờ giả ngôn, điều chẳng thể thốt như thật thì huynh ấy tuyệt đối không mở miệng.

Hang động mà Mị Hương nhắm tới có cửa vòm thấp ở phía nam chân núi Chân Dương, cách nhà A Hường không quá xa, thân Vương Vi không quá cao mà đi vào còn phải khom, Mị Hương thì bò hẳn luôn. Nền hang ẩm và đọng nước, không có dơi hay thú hang, côn trùng cũng lẩn nấp ít thấy, càng vào sâu thì nước đọng càng nhiều, thạch nhũ nhỏ thấp, cuối cùng hình thành nên dòng suối cạn chảy suốt tới một hồ ngầm tít trong lòng núi, tuy nhiên hai người không đi sâu đến mức đó mà dừng lại cách miệng hang chừng một dặm[14]. Mị Hương giấu Tịch hàn tê ở nơi rất bất ngờ, hoá ra sừng trái của cô đã bị gãy lìa và được trám lại bằng một loại bột gỗ đặc biệt, nhìn bên ngoài trông liền lặn chẳng có vẻ chi khác thường, sừng của Địch Dương khá đặc ruột chỉ rỗng một khoảng nhỏ và được cô dùng làm chỗ cất giấu của gia bảo. Vương Vi hỏi:

“Tại sao sừng của cô nương bị thương? Vết sẹo trên mặt là do Nguỵ Thuyết gây ra?”

Mị Hương đặt chiếc sừng tê có màu lóng lánh tựa mai đồi mồi vào tay họ Vương, nhẹ giọng đáp:

“Sừng của tôi bị gãy là do Nguỵ Thuyết làm, còn vết phỏng này… cái này không phải do huynh ấy cố ý, lúc Nguỵ Thuyết và A Hường cùng vắng mặt vào đêm qua, chúng tôi bàn nhau hợp sức phá cũi bỏ trốn, huynh ấy dùng công pháp thuộc tố lôi nên… nên hơi… hơi sém một chút.”

“Ta hiểu rồi,” Vương Vi lên tiếng không để cô khó nói lâu, y chỉ cần biết điểm mấu chốt. “Sừng của cô chắc sẽ khó phục hồi như cũ?”

“Không thể phục hồi!” Mị Hương lắc đầu. “Cũng không quá nghiêm trọng đâu, Cực Đồng công tử đừng lo lắng.”

Ngược lại Mị Hương cũng hỏi Vương Vi:

“Công tử tính luyện pháp bảo thế nào?”

Họ Vương trịnh trọng bảo:

“Xin cô nương tuyệt đối không tiết lộ việc này cho ai khác!”

Mị Hương gật đầu:

“Tất nhiên rồi, tôi hứa với công tử!”

Vương Vi bèn bắt chước động tác của bà chủ nhất, lấy ra được bình Lưu Hương Thuỷ đặt xuống nền hang, nơi này nguyên khí rất trong trẻo dường hội thông với nguyên khí của sơn mạch, quả là thích hợp cho nguyên sĩ tu luyện, y xếp bằng nhắm mắt hít một hơi sâu, chuẩn bị tinh thần với những gì mình sắp thực hiện. Mị Hương cũng ngồi cùng tư thế, bỗng thấy người đối diện luồn tay xuống trái dưới vạt áo tứ điên, lấy ra một vật hình chiếc lá bằng sắt luyện.

Họ Vương luôn giắt trong người một con dao gấp mà khi mở ra hết mức thì dài độ hai gang tay, nó cực bén do đích thân y mài và chế tác lại từ một mảnh sắt nhặt được khi hành nghề lượm đồng, độ bén của nó không thua dao chặt xương chút nào, thậm chí khi vận đủ lực ở góc chính xác thì lực cắt còn có thể hơn. Sau khi có lõi nòng cốt sẽ cần “tắm” nó bằng nguyên liệu tinh khiết nhằm tịnh hoá lõi, đồng thời làm môi giới nhằm gia tăng liên kết giữa nguyên năng của người chế luyện và pháp bảo sắp thành. Hầu hết quy trình chế luyện đều tập trung ở giai đoạn thôi thúc nguyên năng của bản thân không ngừng làm chủ và làm đầy pháp bảo, khiến lõi nòng cốt tự thích nghi cũng như chịu đồng hoá, vì vậy đây là quá trình vô cùng tốn công sức và thời gian, có một số pháp bảo phải trải qua chế luyện nhiều lần mới trở nên hoàn hảo, gọi là tiến trình nâng cấp pháp bảo. Pháp bảo nhận chủ kì thực là “nhận diện” đặc tính nguyên năng của chủ, do mỗi cá nhân đều sở hữu nguyên uyên khác biệt nhau bất kể nhiều ít nên hiếm khi xảy ra trường hợp pháp bảo “nhận nhầm”.

“Công tử!” Mị Hương trừng mắt nhìn khuôn mặt đang tái nhợt nhanh chóng của Cực Đồng, móng tay cô vô thức cấu vào lòng bàn tay, lạ thay mùi máu lại không lan nhanh, từ chỗ đổ ồ ạt thành bốc lên từng giọt.

Vương Vi hiện không còn để ý xung quanh, đóng chặt răng hàm từ lâu nhằm tránh cắn trúng lưỡi, y cẩn thận nghiền ngẫm từng hạt máu của chính mình, quên dần cơn đau vừa thốc đến, ý chí của y liên tục lao nhanh về điểm nào đó trong tương lai, cái tương lai mà y đã xác quyết vào lúc pháp bảo này luyện thành. Họ Vương vẫn nhớ rõ tên của bản thân, nhớ kĩ thói cực đoan của chính mình, rằng một khi quyết định làm việc gì tất sẽ không thoái lùi hay hối tiếc!

***
LỀ
Âm Dương Hạc 陰 陽 貉 (âm Hán)
Bạch Kim Lưu 白 金 留 (âm Hán)
Bạch Ngọc Trạc 白 玉 鷟 (âm Hán)
Bích Đính Ngư 碧 頂 魚 (âm Hán)
Đế Hồng Ngô 螮 虹 蜈 (âm Hán)
Hoả Linh Hồ 火 靈 狐 (âm Hán)
Hoàng Kim Hổ 黃 金 虎 (âm Hán)
Hồng 紅 (âm Hán) Ngô 𥟊 (âm Nôm)
Huyễn Vụ Lị 幻 霚 蜊 (âm Hán)
Phong Hoá 風 化 (âm Hán)
Phong Tật Bức 風 疾 蝠 (âm Hán)
Tuyết Trủng Mã 雪 冢 馬 (âm Hán)
Tử Lộ Hiết 紫 露 蠍 (âm Hán)
Thanh Cát Độc 青 葛 獨 (âm Hán)
Thuỷ Tinh Thiềm 水 晶 蟾 (âm Hán)
Mạc Khô Sầu 莫 枯 愁 (âm Hán)
Nguyên Quy 元 規 (âm Hán)
Nguyễn 阮 (âm Hán) Cũ 𡳰 (âm Nôm)
Thừa Hư 乘 虛 (âm Hán)
*
Đại 大 (âm Hán) Khuy 虧 (âm Nôm) Thừa 承 (âm Hán)
Không Thủ Đảo 空 艏 島 (âm Hán)
Nước Cù Nhang 渃 岣 [火+囊](âm Nôm)
Nhã Vận Tông 雅 韻 宗 (âm Hán)
Phường thị Bích Động 坊 市 壁 動 (âm Hán)
Phường thị Đại Tinh Thao 坊 市 大 星 操 (âm Hán)
Phường thị Hạp Đồng 坊 市 盒 銅 (âm Hán)
Phường thị Hắc Xích 坊 市 黑 尺 (âm Hán)
Phường thị 坊 市 (âm Hán) Hồng 𣖘 (âm Nôm) Tâm 心 (âm Hán)
Phường thị Kim Hàng 坊 市 金 行 (âm Hán)
Phường thị Kim Thuỷ 坊 市 金 水 (âm Hán)
Phường thị Lưu Hàng 坊 市 遛 行 (âm Hán)
Thanh Dị Tông 青 易 宗 (âm Hán)
Thạo Tin 套 信 (âm Nôm) các 閣 (âm Hán)
Thập Anh Phường 拾 英 坊 (âm Hán)
Thôn 村 (âm Hán) Đồng Điếu 銅 吊 (âm Nôm)
Thôn Tang Thậm 村 桑 葚 (âm Hán)
Trảm Ước Phường 斬 約 坊 (âm Hán)

****
CHÚ THÍCH
[1] (Người) tài năng xuất chúng là anh 英; (tấm) yết thị, thông cáo là bảng 榜. Anh bảng 英榜 tức bảng thông cáo đề tên người xuất chúng; trong bối cảnh truyện là hội khảo thí định kì nhằm chọn ra những nhân tài xuất sắc trong nội bộ phái Vân Kiệt Tông, nên gọi Anh Bảng.
[2] Đông đảo là vân 雲, tụ lại là tập 集, (mang) tính nghĩa hiệp là hào 豪, kẻ tài trí hơn người là kiệt 傑. Vân tập hào kiệt 雲集豪傑 hàm nghĩa hội tụ đông đảo những bậc tài trí nghĩa hiệp.
[3] Một trăm là bách 百, thay đổi là chuyển 轉, ngôi sao là tinh 星, dời đi là di 移. Bách chuyển tinh di 百轉星移 nghĩa là trăm lần dời đổi (vị trí) của một ngôi sao hoặc chòm sao.
[4] Sét giật mạnh là phích 霹, sấm vang lớn là lịch 靂 (cần tra cứu thêm). Phích lịch 霹靂 chỉ sấm sét đánh nhanh và mạnh, mang tính dữ dội bất ngờ.
[5] Chỉ loại mâm đan từ cây giang phết sơn, đồng âm với từ “giang sơn”, hàm ý châm biếm.
[6] (Số) mười hai là thập nhị 十二, chức quan luôn ở gần vua là sử 史 (thường gọi ngự sử 御史). Thập Nhị Sử 十二史 là một tổ chức nội bộ của phái Thiên Mộc Đô, chỉ duy nhất nghe lệnh từ đô chủ mà hành động (theo truyện).
[7] Bàn bạc là luận 論, (thuộc về) sức mạnh là võ 武, xem xét là thí 軾, (thuộc về) chữ nghĩa là văn 文. Luận võ thí văn 論武試文 mang nghĩa bàn về võ nghệ và xem xét văn tài; trong bối cảnh truyện là tên một cuộc thi thường niên do Nhã Vận Tông tổ chức.
[8] Đau buồn là bi 悲, cười là tiếu 笑, hạt (tròn) là châu 珠. Bi tiếu châu 悲笑珠 là tên loại pháp bảo có dạng viên tròn, khắc hình khuôn mặt nửa buồn bã nửa tươi cười (theo truyện).
[9] Chuỗi chuông nhỏ khi rung phát ra âm thanh gọi là lục lạc 磟鉻 (cần tra cứu thêm), lưới bắt chim cá là la 羅, hồi chuyển là luân 輪. Lục lạc la luân 磟鉻羅輪 là tên một pháp bảo hình như chiếc lưới quây tròn, mỗi mắt lưới treo một cái lục lạc, có thể tự hồi phục khi bị đánh thủng (theo truyện).
[10] Thu lấy là tịch 籍, rét lạnh là hàn 寒, con tê ngưu (tê giác) là tê 犀. Tịch hàn tê 籍寒犀 là tên một thông linh cụ bằng sừng tê giác, có thể xông ấm xua lạnh (theo truyện).
[11] To lớn là đại 大, con kiến là nghĩ 蟻. Đại nghĩ 大蟻 nghĩa là con kiến lớn.
[12] Con rối gỗ là quỷ lỗi 傀儡, mở rộng nghĩa thành ám chỉ đối tượng bị thao túng, làm bù nhìn cho kẻ khác.
[13] Ngăn chặn là cấm 禁, (từ trong) bước ra ngoài là xuất 出. Cấm xuất 禁出 là tên một loại ứng phù chuyên dùng để phong toả từ bên ngoài, khoá không cho những vật bên trong thoát ra (theo truyện).
[14] Một trượng 丈 là 4,7 mét, một dặm 𨤵 bằng một trăm ba mươi lăm trượng tức 634,5 mét. Xem thêm chú thích “trượng 丈” ở chương 8.