Đội thám bảo lần thứ ba mươi chín của Thôi Vũ Môn, phạm vi tra thám tại Hạ Sơn khê đảo Lôi Công, thuộc châu Chúc Thuỷ, đội do Ngạc Thật dẫn đầu.
Khe nước chảy trong núi Hạ Sơn nên mượn âm làm tên, nghe nói ma đầu Lạc Vẫn Thạch đã chết ở đây trong một cuộc truy tung của Không Thủ Đảo, bên ghềnh khe có hang vòm khá sâu từng là nơi ẩn trú của lão ma đầu Phong Hoá lúc bị Nhã Vận Tông phát Sưu ma lệnh[1]. Sau Phong Hoá đụng độ một du sĩ khác tại ngoại vi núi Hạ Sơn gây động tĩnh lớn, cuối cùng trải qua trận bôn chiến[2] kéo dài ba mươi ngày đêm thì họ Phong “đại lạc” ngoài khơi châu Mộc Lan, kết thúc cuộc đời của một lão ma đầu đơn độc không tông phái. Vòm hang vẫn như xưa, lòng hang vẫn trống rỗng, Phong Hoá luôn mang đồ trên người, vật chi cũng chẳng giấu lại, chỉ hồ nghi khoảng lõm dưới nền đất gần cuối vách hang là do lão làm hay tự nhiên tạo tác. Giả Củ ngồi xuống rờ rờ thử xem, thấy lởm chởm tựa bàn chông đã mòn phần gai nhọn, song bất cẩn một chút liền gây xây xước da ngay, khoảng lõm hình quả trứng to hơn nửa sải tay, ẩm lạnh hơi nước, không gì đặc biệt.
Sầm Lai đứng xớ rớ kế bên, ngó trên ngó dưới mà tay chân chẳng biết để đâu, miệng mồm cũng đâu mất hết, kì thực Diệp sư đệ rất hoạt ngôn một khi quen thân rồi liền nói ào ào, thành ra trong đội kẻ kiệm lời nhất lại là gã mặc dù về vai vế thì gã chỉ dưới hai anh em họ Ngạc. Họ Sầm rất muốn cùng mọi người trò chuyện bình thường vì dù sao gã cũng là sư huynh đồng sư đệ già tuổi đời nhất trong đội, sau khi cốc Sát Đào tạm đóng cửa do chưởng môn chưa tìm được trưởng lão để bổ nhiệm thì Sầm Lai phải thuyên chuyển sang cốc Chẩm Quan Tăng đặng tiếp tục sự nghiệp tu nguyên, trước đó gã cũng đã lết gót theo học ba vị trưởng lão khác rồi. Về vấn đề Điển trưởng lão… tốt nhất đừng bàn luận thì hơn! Tóm lại Sầm Lai không muốn chỉ ngồi im như thóc nghe Thuận Tòng tán nhảm cà kê dê ngỗng lại được Giả Củ hào hứng hưởng ứng, Ngạc Nhiên dù im im giống gã nhưng ít nhất lâu lâu cũng chêm được vài câu, Ngạc Thật thì luôn nói xen vào để giữ nhịp câu chuyện, mỗi mình gã lại không thốt nổi lời nào mà cũng chẳng được ai hỏi đến!
Sở trường của Sầm Lai là đọc sách, tính ra gã qua nương nhờ cốc Bổn của Bàng Hạc trưởng lão cũng không ngoa lắm, thấy giống tính nhau mà. Có điều việc qua ở cốc nào không phải do hàng đệ tử chưa vượt cảnh giới đại thông như gã quyết định, bàn về trình độ tu nguyên, hiện trong đội xét mặt lí thuyết thì gã lợi hại nhất: Ngạc Nhiên, Ngạc Thật đều vừa đột phá tuyệt hàn, Giả Củ đang ở sung vĩnh còn Thuận Tòng thì đã bát trùng nhưng mới tầng thứ nhất, riêng họ Sầm là bát trùng tầng thứ ba. Do bụng sách lâu ngày chất chứa, Sầm Lai biết cảnh giới tu luyện của bản thân chưa phải là tất cả, nó có thể là yếu tố quyết định chiến thắng trong một trận đấu nhưng không hẳn là nhân tố quyết định sống còn trong những hoàn cảnh khác nhau. Theo gã, người mạnh nhất và có khả năng sống dai nhất trong đội chính là Thuận Tòng, người thứ hai là Ngạc Thật, vì sao vậy? Bởi Thuận Tòng sở hữu khá nhiều thông linh cụ và điều quan trọng là gã sử dụng thành thạo được tất cả chúng, còn Ngạc Thật thì có thể chất Tích Bạc.
Thể chất Tích Bạc, nghĩa cũng như tên, chu trình vận nguyên của loại thể chất này như cái bát đất sét trên bàn xoay, mới đầu rất nhỏ chứa được rất ít, ráng đổ nhiều bao nhiêu càng uổng phí bấy nhiêu, song từ từ khi cái bát được vần xoay lớn dần thì khả năng dung chứa sẽ tăng lên. Ngắn gọn cho dễ hiểu thì thể Tích Bạc có thể gia tăng “dung tích” nguyên uyên thay vì bị cố định hạn mức như thể chất thông thường, đó là lí do vì sao những nguyên sĩ sở hữu thể chất này luôn câu kéo giai đoạn lực sĩ lâu nhất có thể, cốt mở rộng hết cỡ nguyên uyên của mình, bởi sau khi tuyệt hàn thì khả năng “giãn nở” này sẽ đình chỉ gần như hoàn toàn. Như Ngạc Thật tốn hai mươi năm mới từ lẫm dư lên tuyệt hàn, thế cũng coi là nhanh so với thể chất đặc biệt của gã, Ngạc Nhiên chỉ tốn mười năm nhưng nghe nói một phần vì muốn đợi em trai cùng đột phá, một phần do gã từng trúng độc gì đó khó giải nên tiến cảnh chậm hơn bình thường. Từ đấy suy ra, lấy độ bền làm chuẩn thì năm mạng trong đội không ai hơn Ngạc Thật, Sầm Lai từng nghe mấy trưởng lão tán gẫu với nhau ở chái điện Thừa Thiên rằng lượng nguyên năng tối đa của Ngạc em thậm chí còn nhỉnh hơn sư tổ của gã là Đạo Thành chân nhân nữa, mặc dù Đạo Thành chân nhân không sở hữu thể chất đặc biệt mà chỉ tu luyện công pháp đặc biệt thôi.
Diệp Giả Củ lúc gia nhập Thôi Vũ Môn đã ở cảnh giới khí cao rồi, đệ ấy khai rằng tổ tiên trong nhà có vị làm nguyên sĩ nên để lại cho hậu duệ vài công pháp sơ cơ, họ Diệp theo đó tự học rồi sau được người quen biết giới thiệu đến Thôi Vũ Môn. Thầy của Diệp sư đệ là Hoả Du trưởng lão khá kiệm lời, thi thoảng bay ngang cốc Chẩm Quan Tăng cũng ghé vào chào hỏi Điển Tê Ao trưởng lão, lần nọ ông còn tặng ít vải thiều cho Sầm Lai nhưng đã bị Điển trưởng lão vô tình ăn hết!
Nhiệm vụ thám bảo chuyến này bình yên quá đỗi, từ hồi Ngũ Diệu Môn phất lên làm bá chủ chính đạo một phương thì thẳng tay trấn áp ma đạo tứ phương, ngay cả Vân Kiệt Tông còn chưa làm quyết liệt đến thế. Đảo Lôi Công vốn năm nào cũng bị bọn họ tổ chức “quét tước” thì lòi đâu ra đệ tử ma đạo hay đồ đạc rơi vãi gì, đặt tên “thám bảo” chứ thực ra là đi “thám thính”, còn “bảo” đã sớm chui vào túi của họ hết rồi! Hiện ở châu Chúc Thuỷ chắc có mỗi Hắc Nham Tông lời nói đủ nặng để đám khinh người bên Ngũ Diệu Môn kia phải lóng tai nghe, chứ như hồi mới hội nhau tại điểm tập kết, đội bên Ngũ Diệu Môn còn chẳng sốt sắng chào hỏi ai, đợi người ta chạy đến trước mặt mình thưa dạ rồi khách sáo trả lời, thái độ thật sự gây khó chịu. Hơn nữa việc thám bảo vốn do Vân Kiệt Tông bên châu Mộc Lan khởi xướng, đảo Lôi Công lại là sân nhà của Ngũ Diệu Môn, đáng ra họ nên lấy lễ mà đãi khách, nào phải kiểu dân ngoài đường tiếp khách thập phương vậy đâu!
Tổng tới mười tám phái tham gia đợt thám bảo năm nay, bên châu Mộc Lan góp mười hai phái mà riêng nước Đại đã chiếm mười phái, châu Đại Bạch góp một phái là Xuân Thuỷ Hãn, châu Chúc Thuỷ góp năm phái, ngoài Ngũ Diệu Môn thì bốn phái nhỏ kia đều thuộc dạng “con cháu” của Ngũ Diệu Môn cả. Đáng chú ý là Thần Hành Môn tuy lập phái đã lâu và tự xưng chính đạo nhưng mãi gần đây mới chịu tham gia sự vụ với các phái chính đạo khác, vì vậy rất được Vân Kiệt Tông hoan nghênh. Phái nữa là Vi Bác Đao, năm xưa từng góp công tiêu diệt lão ma đầu Phong Hoá thì đợt thám bảo nào cũng thấy mặt, là phái chính đạo duy nhất lấy tên tổ khai sơn đặt làm tên phái, sở trường chung về đao pháp, nghe nói thiếu môn chủ hiện tại của họ sở hữu khoái đao “ngàn năm có một”. Tuy tồn tại lâu đời song Vi Bác Đao luôn trung thành với lề lối tuyển đệ tử khác biệt so với thập đại phái của nước Đại, bao lâu nay vẫn không chủ trương mở rộng địa bàn hay hô hào thanh thế, quan điểm của họ hơi giống Thôi Vũ Môn ở chỗ “trọng chất không trọng lượng”, về tác phong thì lại làm người ta nhớ đến phường thị Hắc Xích vốn được mệnh danh là “cảm tử quân” của Vân Kiệt Tông…
Nếu hỏi điểm giống nhau giữa đệ tử Vi Bác Đao với Hắc Xích phường thị thì giới tu nguyên của đông ngũ bộ, chưa kể Sầm Lai, đều ngao ngán trả lời: Điên cuồng!
Nhưng Vi Bác Đao nguy hiểm hơn “cảm tử quân” của Vân Kiệt Tông ở chỗ là họ có “máu điên” chứ không phải kiểu cố chấp hoàn thành nhiệm vụ cho kì được, bởi thế ít ai muốn hợp tác với cả hai nhóm người này, mà bọn họ cũng hiểu bản thân nên toàn độc lai độc vãng. Vi Bác Đao mỗi lần thám bảo đều chỉ cử nhiều nhất ba mạng, năm nay là hai mạng, cũng phải thôi, vì giang hồ vốn có câu:
“Liều thì ăn nhiều, nhiều chưa chắc ăn được liều!”
“Câu đó chuẩn đấy Sầm huynh!” Thuận Tòng thuận miệng bàn vào. “Đệ cũng từng nghe bài này:
"Trên đời có bốn cái ngu, Cái nào gặp phải thì xù nó ngay: Một bàn lí lẽ kẻ say, Hai cùng kẻ xấu tra tay vào cùm, Ba phí lời với đầu chum, Bốn đấu với lũ mặt hùm óc trâu!”
Sầm Lai nhất thời đơ người, gã tập trung suy nghĩ tới nỗi thốt luôn ra miệng, nãy giờ mấy đứa còn lại tán dóc chuyện gì tới đâu rồi gã cũng chẳng biết nữa, và cái bài lục bát trên của Thuận Tòng chưa gặp qua trong sách nào cả, tự bịa đấy à? Mà tên sư đệ này đã làm thơ được bài nào đâu, chắc nghe ai bịa sẵn rồi học theo, tuy khớp vần điệu mà nội dung cứ sao sao…
“Đệ thì nghe bảo mo cau, Mỗi khi gặp lửa thì đều mau co!”
Sầm Lai chưa hiểu họ Diệp nói câu trên thì có gì liên quan với câu trên nữa của Thuận Tòng, Ngạc Thật đã bắt nhịp vào:
“Mỗi khi gặp thợ khảm sen, quen liền ba thứ có: đỏ lửa, vàng chanh, xanh hoa lí[3].”
Giờ Sầm Lai hiểu ra rồi, mặc dù không rõ lí do nhưng cả bọn đang chơi trò “bắt chữ liền vần”, gã chẳng ngại ngần đáp ngay:
“Các cụ xưa dạy: bảy mươi chớ cười bảy mốt!"
Ngạc Nhiên làm câu chốt:
“Khôn cho người ta rái[4], dại cho người ta thương, dở dở ương ương chỉ tổ người ta ghét.”
Khi thốt câu đấy gã đang nhớ tới thằng họ Tân kia, cái thứ ngồi sau ăn trước! Từ bận làm đệ tử của sư bá rồi là cái mặt cứ vênh vênh, mà phải nó tài hay gì, chẳng qua chỉ làm chó đớp phải ruồi, thiệt chán chả muốn gặp!
Còn Sầm Lai thì nghĩ thời của mình đã đến, cao hứng đố chữ một câu:
“Ở nhà chống gậy cây ra, Hỏi cô bán gạo có nhà hay không?”
"Cổ cao ba ngấn, tóc quấn ba vòng, Thắt đáy lưng ong, con dòng cháu giống!
"Còn về mặt mũi thì:
"Những người con mắt lá răm, Lông mày lá liễu, đáng trăm quan tiền!”
Giả Củ còn nhỏ không hiểu gì cả nhưng nhất quyết chẳng làm người đến sau, bắt đầu tán nhảm:
“Như huynh mô tả thì đệ nhớ có vị sư tỉ bên cốc kia trông cũng giống giống, hình như tỉ ấy tên là…”
Sầm Lai cũng chẳng biết tại sao, đề tài bàn luận của cả đội bỗng xoay ngang sang vấn đề sắc vóc phụ nữ, lối trò chuyện này thật chóng mặt, như kiểu đang đọc thơ niêm luật say sưa nào dè vừa lật trang đã thấy toàn đồ hình địa lí! Cuối cùng gã đi đến kết luận: không góp củi sẽ không cháy nồi, im lặng là vàng như họ hàng mình hay nói!
May sao cuộc phiếm chuyện quay mòng mau chóng kết thúc vì cả bọn thấy đói bụng, lại đinh ninh rằng nơi đây chẳng có bè lũ ma đạo nào lẩn lút và cả các đội khác đang làm nhiệm vụ chung nữa, thành thử rủ nhau bày biện nấu ăn ngay trước cửa hang động. Anh em họ Ngạc thu gom củi khô về chất đống theo thói quen đi rừng từ xưa, Thuận Tòng có mang nồi, niêu các thứ, Giả Củ thì đèo gia vị xay nhỏ theo giờ đã có đất dụng võ, Sầm Lai tất nhiên giỏi nấu ăn, nhờ vậy mới sống được với Điển trưởng lão. Quan trọng là nguyên liệu toàn củ, rau rừng với nấm dại, mặc dù nguyên sĩ có khả năng kháng độc tính cao hơn người thường nhưng không đồng nghĩa với “bách độc bất xâm”, phải thu hái chọn lựa cẩn thận mới được!
Thời gian thám bảo là ba ngày trừ ngày tập kết, mỗi đội sau khi kiểm tra khu vực được trưởng lão phân công xong báo cáo lại tình hình thì được tự do hành động, giả hên nhặt được của rơi nào đó cứ tự chia nhau, miễn không bị ai kiện cáo gì thì chẳng sao cả. Thuật ra cứ như đi dã ngoại, song nếu đệ tử ma đạo thật sự xuất hiện liền trở thành tử chiến ngay, thế nên ngay khi tình hình đang an toàn cũng không thể hoàn toàn bỏ lơi phòng bị!
Đội năm người phân công làm bếp thế này:
Ngạc Thật cùng Thuận Tòng quen trèo đèo lội suối sẽ đi hái lượm trong vòng mười dặm chung quanh, sau nửa canh thì quay về hang, quá nửa canh không về cũng không dùng ngư phù truyền tin thì Ngạc Nhiên thay em mình làm đội trưởng, lập tức báo tin đồng đội mất tích cho trưởng lão Ngoạn Thư Hành. Ngoạn Thư Hành là trưởng lão thuộc phường thị Bích Động của Vân Kiệt Tông, phụ trách quản lí tất cả đội thám bảo đến từ châu Mộc Lan, đồng chức phía bên châu Đại Bạch là Cẩm Ý trưởng lão, còn châu Chúc Thuỷ là Bàn Không trưởng lão.
Sầm Lai phụ trách nấu chính, gã tự giết thời gian bằng cách dự đoán xem hai người kia có thể tìm được những gì rồi bản thân nên nấu chúng thành các món nào…
Ngạc Nhiên làm phụ bếp, chủ yếu thầu khâu xử lí nguyên liệu tươi như thái, gọt… bình thường gã với em trai luân phiên giúp nhau nấu ăn, có điều khẩu vị của ba người còn lại chưa chắc đồng nhất với anh em gã, thế nên cứ để người nhiều kinh nghiệm như họ Sầm cầm trịch là tốt nhất. Ngoài ra Ngạc anh vốn là đội phó nên việc cảnh giới xung quanh không thể lơ là, gã còn là người cầm lộc bàn nữa, vật này vô cùng quan trọng hơn cả minh luy và bản đồ, không có nó thì điểm tập kết nằm ở đâu cũng vô phương tìm thấy!
Giả Củ dù sao cũng sung vĩnh tiếp kỳ rồi, cao hơn cả đội trưởng và đội phó một đại cảnh giới, đương nhiên lãnh nhiệm vụ phòng bị chung với Ngạc Nhiên, đang cuồng chân đi tới đi lui trước cửa hang trong khi hai sư huynh điềm tĩnh ngồi dưới vòm đá.
Chính ra không có Thuận Tòng thì tổng lực chiến của đội sẽ giảm mạnh, bản thân Thuận Tòng từng lăn lộn chốn đấu trường Bạc Lạc thời gian ngắn trước khi được Ngã Trung Lí trưởng lão nhặt về làm đệ tử thân truyền, do đó kinh nghiệm chiến đấu của gã phong phú hơn hẳn đồng môn trang lứa, còn đang ở cảnh giới bát trùng nữa, trong các đội thám bảo lần này không nhiều đội có đệ tử đạt cảnh giới đấy.
Qua hồi lâu, cảm thấy quá buồn chán nên Giả Củ xin với Ngạc Nhiên là muốn khám phá một vòng dọc khe Hạ Sơn, cho khỏi uổng chuyến thám bảo này, đi độ một khắc là về chứ chẳng la cà lâu, Ngạc Nhiên không có lí do gì để từ chối nên đồng ý, vậy là trong hang chỉ còn Ngạc anh cùng Sầm Lai ngồi đồng với nhau.
Giả Củ đi mau một đỗi, vờ đứng lại tựa hồ ngắm phong cảnh, đoạn lại bước tiếp, mất hút khỏi tầm mắt của đàn anh đồng môn dưới những tán lá rừng ẩm hơi nước. Họ Diệp chẳng trốn đâu quá xa, chỉ kiếm một chỗ khuất khúc rồi ngồi thu lu trong đó, lấy ra một tấm ngư phù bằng bạch ngọc do sư phụ đưa cho, bắt đầu truyền tin tức đi. Giả Củ chấm ngón trỏ vào mắt trái của con cá, ngư phù liền sống động tựa cá thật, cuối cùng quẫy vi bơi lên, miệng cá thổi ra một cái bong bóng không ngừng trương to, phủ lấy Giả Củ và chính ngư phù, con cá hỏi:
“Con đang ở đâu?”
“Hạ Sơn khê ạ!” Giả Củ y thật trả lời.
“Hay lắm, xem ra ta đã tính toán đúng!” Giọng của con cá rất già nua, “con có nhìn thấy các ám hiệu mà ta đã để lại không?”
“Dạ có, cho nên con mới truyền tin cho sư phụ nè!”
“Vậy là con đi ngang hang Phong Hoá rồi?”
“Đội của con đang cắm trại ở đó, ám hiệu của sư phụ dưới chỗ lõm con cũng thấy!”
“Đội của con do ai dẫn đầu?” Con cá hỏi tiếp.
“Một tuyệt hàn có thể chất Tích Bạc tên là Ngạc Thật.”
“Thế chắc y cũng phải hơn năm mươi tuổi…”
“Chưa tới bốn mươi nữa sư phụ ơi!”
“Vậy là nhân tài đấy! Con có biết tại sao y vào Thôi Vũ Môn không?”
“Hình như là do đắm tàu ạ, y có một anh trai nữa hơn y hai tuổi, tàu của họ đắm ngoài khơi biển Hòn Sâu sau dạt vào bờ phía nam nước Lộc, bọn họ được dân chài vớt lên bờ rồi làm linh tinh gì đó kiếm sống qua ngày, sau Hạc Cầm với Bàng Hạc tình cờ gặp mới kêu họ tham gia sân chiêu tài của Thôi Vũ Môn, hai anh em đều đậu rồi được Bàng Hạc nhận làm đệ tử thân truyền,” Giả Củ đã nghiên cứu thông tin sơ bộ của anh em họ Ngạc, lại thêm. “Mà Bàng Hạc không rõ có toan tính gì, cứ ép Ngạc Thật phải mau đạt tới tuyệt hàn trong khi thể chất Tích Bạc cần đầu tư thời gian ở giai đoạn lẫm dư, thế nên Ngạc Thật mới tuyệt hàn sớm như vậy, chỉ tốn hai mươi năm thôi!”
“Vi sư đã nói với con bề ngoài rất dễ lừa lọc,” con cá quẫy đầu nguây nguẩy đáp. “Bất quá dù sao đi nữa Ngạc Thật cũng cần chờ xem thêm, còn Bàng Hạc… hừm vi sư có được một tin tức, e rằng lần này nguỵ phái sẽ phải tổn thất nhân sĩ, con cũng không cần tham gia mà nên cẩn thận tránh bị nghi ngờ, mau tìm cách dẫn đội của con ra khỏi khu vực xung quanh núi Hạ Sơn trăm dặm đi!”
“Đô… Mạc lão tổ sẽ phái Thập Nhị Sử đến?” Giả Củ vô ý cau mày, may mà sư phụ gã không thể thông qua ngư phù quan sát thấy.
“Chưa tới mức đó!” Con cá trả lời. “Nhưng con cũng biết rồi, đô chủ rất tán thưởng Phong Hoá mặc dù hắn đã thoái thác lời mời quý giá từ ngài ấy, sau khi Phong Hoá thệ thế thì có vài kẻ chủ chốt trong trận truy đuổi hắn bên nguỵ phái bị đô chủ hạ lệnh ám sát, tựa hồ ngài ấy muốn trả thù thay hắn vậy! Ai, mấy chuyện này nói với con cũng không ích gì, Ngũ Diệu Môn vênh váo bấy lâu đã đủ rồi, đô chủ sắp phá quan chủ trì đại sự nên càng chẳng nhẫn nhịn nữa, lần ra tay này là để dằn mặt chúng, vì vậy vai trò của con khá quan trọng, chớ để lộ thân phận hay dấu vết nào…”
Giả Củ sốt sắng nói:
“Con biết rõ mà sư phụ, người cứ yên tâm! Con diễn hay lắm, chỉ sợ mấy lão già ở trên thần thông quảng đại thôi, còn bằng lứa là con ‘chơi đẹp’ hết!”
“Ừm, vi sư tin tưởng con,” con cá gật gật, mắt phải giật giật, báo hiệu cuộc truyền tin sắp kết thúc. “Hiện giờ con nên tránh đụng độ với người của phe ta, đối tượng lần này là một đệ tử mới nhập môn bên nguỵ phái, tuy nhiên nó cũng chỉ là mồi nhằm câu con cá lớn hơn. Người của đô chủ đã hành động từ trước khi đám phụ đạo đó bước chân lên đảo Lôi Công, một khi đô chủ đã dàn xếp thì kết cục tất định rõ! Trận này không lớn cũng không nhỏ, bất quá với một nguyên sĩ sung vĩnh tiếp kỳ như con thì còn chưa đủ tư cách quan chiến đâu, vả lại cần tránh bị bọn chúng hiềm nghi, con phải làm cho khéo!”
“Con hiểu rồi, sư phụ!”
“Ừm, cứ vậy đi!” Mắt cá nhạt dần dù thanh âm già nua vẫn rõ ràng. “Qua trận này rồi, con cứ về lại Thôi Vũ Môn, chờ xem nếu có động tĩnh gì mới thì vi sư sẽ báo cho con để tuỳ cơ ứng biến!”
“Vâng ạ,” Giả Củ lễ phép chắp tay trước con cá. “Đệ tử cung tiễn sư phụ!”
Con cá hết phần sinh động, ngay đơ rơi xuống thảm thực vật bên dưới, êm ái không tiếng động, bong bóng cách âm cũng tan đi trong làn không khí ẩm ướt từ mặt suối bị nắng chiếu bốc hơi lên. Giả Củ thu lấy ngư phù giấu đi, lại lấy ra cái khác bằng gỗ loại bình thường, truyền tin cho Ngạc Nhiên:
“Đại Ngạc sư huynh, đệ sắp về rồi, quanh đây chẳng có gì lạ cả, toàn là cây rừng thôi, phía Nhị Ngạc sư huynh với Thuận Tòng sư huynh đã trở về chưa ạ?”
“Diệp sư đệ canh khéo quá, vừa sắp một khắc rồi,” con cá phát sáng xanh nhạt nhưng không tỏ ra sinh động như cái bằng ngọc trước đó, giọng của Ngạc Nhiên hơi buồn ngủ, hẳn mọi sự ở hang cũng nhạt nhẽo chẳng xảy việc chi bất thường. “Ngạc Thật với Thuận Tòng đều chưa về, chắc đi kiếm hơi xa… Mà đệ có tìm thấy củ quả gì ăn được gần đây không?”
“Đệ chỉ thấy toàn là dương xỉ với cây lá xanh…”
“Thế thôi vậy, nếu không việc gì nữa thì đệ mau trở lại hang đi, thêm một người thì đỡ lo hơn, quá trưa rồi!”
“Vâng, sư huynh!”
Giả Củ lại cất ngư phù bằng gỗ đi, tiếp tục lấy ra một cái lộc bàn bí mật, trên dấu hiệu mà sư phụ để lại nơi lòng hang bên khe Hạ Sơn có ghi vị trí xuất hiện nguyên liệu luyện hoàn đan, suối lộ thiên và hang động cỡ trung đến lớn trong phạm vi trăm dặm quanh đây. Họ Diệp bèn sao lại y chang vào lộc bàn của mình, dựa theo hệ thống sơn mạch dồi dào nguyên khí, ngoài kỳ trân dị thảo thì các loại thực vật bình thường sinh trưởng trên đó đều tươi tốt phong phú hơn những khu vực khác. Ngạc Thật với Thuận Tòng ắt cũng men theo đấy mà tìm nguyên liệu nấu ăn, khoảng cách giới hạn là mười dặm, nguyên sĩ cảnh giới đại thông mới có thể ngự pháp bảo nhưng chưa hẳn phi hành được, dù may mắn sở hữu pháp bảo truyền đời chứa đựng nguyên năng tích luỹ mà mượn đó để bay cũng rất tốn sức… Tóm lại họ Ngạc cùng Thuận Tòng đều sử dụng khinh công, tính trung bình thì các lực sĩ tốn chừng một khắc để vượt quãng đường mười dặm với điều kiện là đi thẳng và không gặp chướng ngại vật, nguyên sĩ thậm chí nhanh gấp ba vì cần ít điểm tựa cũng như di chuyển nhẹ nhàng hơn hẳn. Nhóm Ngạc Thật rời đi suýt soát ba khắc rồi, nếu họ Diệp me cho chính xác thì sẽ “vô tình” bắt gặp hai đàn anh đang thu hoạch về, họ là hai “nhân chứng ngoại phạm” hoàn hảo của gã, vậy nên Giả Củ giấu lộc bàn đi rồi tìm vị trí đứng chờ phù hợp…
Về chuyện của Phong Hoá, hồi lão chưa chết thì không nhiều người biết chứ sau khi lão chết thì ai ai cũng biết, rằng lão với Hạc Huệ ngầm tự ý kết bạn lữ với nhau!
Hạc Huệ là ai ư? Là ái đồ mà cố tông chủ của Nhã Vận Tông hết lòng bồi dưỡng. Dân ở đông ngũ bộ từng truyền miệng nhau câu này: Giai nhân thiên hạ có mười ngàn, Vũ Lai một nửa đứng hàng thứ hai. Nói đứng hàng thứ hai ý là Vũ Lai mà đệ nhị thì chẳng ai đệ nhất, danh tiếng về mĩ nhân “đệ nhị vô đệ nhất” của đông ngũ bộ vang tận qua phía tây, khiến chẳng ít nhân sĩ bên đó hiếu kỳ vượt biển đến vịnh Hạc Đài của Nhã Vận Tông để cầu kiến, mong được thấy người đẹp tận mắt, lễ vật gặp mặt càng nhiều không đếm xuể…
Hương Vũ Lai là tên lúc còn ở nhà của Hạc Huệ, bà ta có một em gái sinh đôi nữa tên Hương Dạ Lai, hiện là phường chủ của Trảm Ước phường cũng là tổ khai sơn của phái đó. Ban đầu cả hai chị em họ Hương đều đầu nhập Nhã Vận Tông, tông chủ bấy giờ rất thích Hương chị nên thâu nhận làm đệ tử thân truyền đồng thời đổi tên thành Hạc Huệ vì cho tên huý Vũ Lai nghe không hay. Sau đó không bao lâu thì Hương em thương một nam đệ tử bên Thập Anh Phường bèn chuyển sang phái ấy, mặc dù cùng là chính đạo nên Nhã Vận Tông chẳng dị nghị nhiều song bắt đệ tử Thập Anh Phường kia phải đính ước với Dạ Lai, coi như hai phái thông hôn với nhau đặng danh chính ngôn thuận. Chuyện của Dạ Lai khá bi thảm, nếu không bà ta đã chẳng trở thành Oán Âm phu nhân như bây giờ!
Riêng Hạc Huệ thì càng ngày càng tiến xa trên tu nguyên lộ, đến nỗi trong ngoài Nhã Vận Tông đều tin rằng bà ta chính là tông chủ đời tiếp theo sau khi Cố Nguyên Chân thệ thế. Chắc không ai ngoài nội bộ tông Nhã Vận biết Hạc Huệ quen biết Phong Hoá ở đâu và vào lúc nào, hai người họ lén lút qua lại với nhau hẳn rất lâu mới có chuyện trao kỉ vật đính ước, đến khi mọi chuyện vỡ lở thì đã muộn. May mà cả hai chưa gây ra nghiệt chủng gì, Cố Nguyên Chân phát Sưu ma lệnh chỉ đích danh Phong Hoá, các phái chính đạo khác lập tức hô hào hưởng ứng theo vì họ Phong cũng gây hại cho chính đạo khá nhiều, chứ một kẻ không môn không phái như lão mà bị xếp vào “ma đạo” quả thật hi hữu. Cuối cùng như đã biết, Phong Hoá chết trên một hòn đảo vô danh tại ngoại hải châu Mộc Lan, điều kì lạ là dường suốt cuộc bôn chiến lão chỉ bỏ chạy chứ ít đánh trả, nghe đồn vì lão đã hứa với Hạc Huệ sẽ không giết người vô tội nữa, chẳng biết có thật không nhưng trận diệt ma đó bên chính đạo chẳng ai chết cả mặc dù Phong Hoá là một cao thủ cảnh giới đại thành.
Phong Hoá chết rồi, tin mừng truyền về Nhã Vận Tông cũng là tin dữ với Hạc Huệ, Cố Nguyên Chân muốn đệ tử yêu của mình tuyên bố bản thân trong sạch chưa từng câu kết ma đạo càng không có chuyện cùng y kết thành bạn lữ, đó là lần đầu tiên và duy nhất Hạc Huệ khước từ mệnh lệnh của thầy cũng như tông chủ phái mình. Tuy vậy vì thể diện của Nhã Vận Tông, Hạc Huệ xin bế tử quan[5] sau rốt được sư phụ miễn cưỡng chấp nhận, nói miễn cưỡng vì hình như Hạc Huệ đã quỳ ngoài cửa thầy suốt ba đêm để xin lệnh ấy. Từ đó Hạc Huệ hầu như chẳng mấy khi xuất hiện cho chúng nhân thấy nữa, vị mĩ nhân năm nào từng khuynh đảo cả năm đại châu phía đông giờ trầm mặc im lặng như một tượng đá nhìn năm tháng, ngay cả đệ tử trong tông môn cũng ít gặp được bà ta.
Mỗi năm vào lễ tế tổ khai sơn của Nhã Vận Tông thì Hạc Huệ mới xuất quan một lần để tham dự, do lễ tế này không cho phép người ngoài bước vào nên chẳng ai rõ nghi thức cử hành ra sao cả, song phong thanh rỉ lọt từ vài đệ tử thiện[6] nói chuyện bên đó cũng tiết lộ chút ít, rằng chỉ các trưởng lão cấp bậc Linh Âm[7] mới được tế tổ và đều phải mặc đồ trắng không đeo phục sức nào khác. Nhiêu đó đủ làm người ta ai hoài khi nghĩ đến nữ tử diễm lệ nhất khoác bạch y đơn sơ, khuôn mặt tiều tuỵ dẫu vẫn đẹp đẽ đến nao lòng, đứng cùng bao nhiêu người khác trên đài hương hoả[8] nghiêm trang nhưng cũng tịch mịch. Tiếc cho tình hương lửa[9] của giai nhân đều là khói mây trong mắt thiên hạ, Giả Củ chợt nhớ ra một câu từng nghe sư phụ ngâm vào buổi tối nọ ôm bầu rượu: “Hoa vô chủ thì hoa đẹp với người, hoa hữu chủ thì hoa chỉ đẹp với một người mà thôi!”
Suy cho cùng ai cũng yêu cái đẹp chê cái xấu, danh tiếng của Phong Hoá trong giới ma đạo tự dưng cũng vì việc này mà nâng lên không ít, một kẻ được xem là ma đạo lại khiến cho mĩ nhân “đệ nhị vô đệ nhất” của chính đạo và cả đông ngũ bộ châu phải xiêu lòng. Riêng họ Diệp không thấy chuyện trên có gì hay, chẳng phải kết quả cũng là hai người họ một sống một chết sao? Người ta bình thường lấy vợ gả chồng, gia đình êm ấm, sao chẳng ai khen? Lại đi bàn tán than thở cho cặp đôi không hề môn đăng hộ đối mà vẫn cố dây dưa, để rồi cuối cùng bi thảm li biệt! Hạc Huệ sau khi mất người yêu thì chẳng nói chuyện với ai nữa, có chăng là sư phụ hoặc vài đồng môn thân thiết nhất, ngay cả em gái ruột cũng đã vào ma đạo mất rồi, đến nỗi lâu dần bà ta được gọi là Vô Ngôn phu nhân.
Bên ma đạo cũng kì quặc, những ai biết cố sự của Phong Hoá ít nhiều đều nể nang vị Vô Ngôn phu nhân này, cho là bà ta biết giữ lời hứa chứ không lật lọng tráo trở như nhiều kẻ tự xưng chính đạo khác. Lại vì Hạc Huệ ẩn lui khỏi giới tu nguyên một thời gian dài nên những chiến tích lừng lẫy ngày xưa vào cái thời mà bà ta có phong độ cao nhất, tỉ như trận “đoạt Anh đài” tại hội khảo thí Anh Bảng của Vân Kiệt Tông, hay “sát ma khí” ở đại bản doanh Lạn Phong Cốc… cũng chẳng mấy khi được nhắc đến nữa.
Trong khi đó em gái của bà ta là Hương Dạ Lai từng lấy tên Thù Hoàn phu nhân thì càng lúc càng nổi tiếng bên phe ma đạo: thủ đoạn, cảnh giới, công pháp, chiến tích, tất cả đều tăng vượt bậc! Trảm Ước Phường do bà ta lập ra cũng dần vươn lên xếp vào hàng ngũ đứng đầu trong giới, Mạc đô chủ ban đầu tuy chưa để ý mấy song về sau cũng ngỏ ý kết giao, có điều ông ta luôn giữ khoảng cách với tất cả nữ tử không phải thê, thiếp của mình nên giữa Thiên Mộc Đô và Trảm Ước Phường toàn nữ đệ tử chỉ là mối quan hệ ban giao chứ không thân cận. Lần này chẳng biết Mạc đô chủ toan tính gì, ông ta là người đa nghi, hễ lập kế hoạch thì chẳng khi nào nói ra cho các môn nhân đệ tử dưới trướng biết, những ai sẽ tham gia mới được biết mà cũng biết chừng một, hai phần, mọi việc đều phải do đích thân họ Mạc chỉ huy điều động…
“Ủa Diệp sư đệ?” Ngạc Thật ôm một con nai chạy ngang qua, kinh ngạc thấy Giả Củ đang xớ rớ đâu gần hạ nguồn khe Hạ Sơn, Thuận Tòng đèo cả chùm củ lùn và bình tinh đang đi bên cạnh cũng dừng bước theo.
“Nhị Ngạc sư huynh, Thuận Tòng sư huynh!” Giả Củ mừng rỡ kêu lên, lội luôn xuống khe nước nông, bước qua bên này. “Đệ xin Đại Ngạc sư huynh đi dạo một vòng gần hang mà không ngờ lạc mất tiêu luôn, hai huynh dắt đệ về ké với!”
“Ừ, đệ đã ở đây rồi thì cùng về luôn đi,” Ngạc Thật không nghi ngờ vì gã cầm bản đồ và minh luy rồi, chỉ còn mỗi anh mình đang giữ lộc bàn duy nhất của cả đội, chỉ không nghĩ họ Diệp lạc xa đến thế. “Lần sau đệ nên rủ thêm sư huynh khác đi cùng, nơi này trung lập mà chúng ta đang phối hợp với phe chính đạo nên cần cẩn thận tránh bị ma đạo ám toán!”
“Đệ biết rồi, cảm ơn Nhị Ngạc sư huynh!” Giả Củ gật đầu lia lịa, miệng mau mắn. “Mấy củ lùn đó trông ngon quá, đệ cũng đang rảnh tay, Thuận Tòng sư huynh chuyển bớt qua cho đệ phụ gánh với nhé!”
Thuận Tòng nghe vậy cũng chẳng phản đối gì, chia cho Giả Củ phần củ lùn đó, ba huynh đệ đồng môn lại tiếp tục lên đường về lại hang Phong Hoá. Đang đi, Thuận Tòng chợt buột miệng:
“Hình như ban nãy Sầm sư huynh có đố câu gì đấy nhỉ, gì mà có cô bán gạo chống gậy ấy, ta nghĩ đó là một câu đố nhưng nghe kì lạ quá!”
Giả Củ liến thoắng đáp:
“Là đố chữ ‘lầu’[10] đấy Thuận Tòng sư huynh, huynh nhắc đệ mới nhớ! Lúc đó tự dưng Sầm sư huynh đố ngang làm đệ cũng phản ứng không kịp…”
“Huynh ấy rất kiệm lời,” Ngạc Thật nhận xét. “Quả là một người suy nghĩ chững chạc, hơn hẳn đám hậu bối chúng ta!”
Thuận Tòng bắt chuyện tiếp:
“Dù sao Sầm huynh cũng nhập môn lâu rồi mà, còn nhớ hồi đệ mới được sư phụ thâu nhận, cái gì cũng không biết nên rất hay đến hỏi huynh ấy, nhiều đệ tử khác cũng vậy, mà chẳng thấy huynh ấy cau có bao giờ, lúc nào cũng rất ân cần chỉ bảo đồng môn, hẳn là do tính người.”
“Sầm sư huynh còn nấu ăn ngon nữa,” Giả Củ cười hè hè. “Phải huynh ấy chứ mà là đệ chắc không sống nổi bên cốc Điển trưởng lão quá hai ngày đâu!”
Thuận Tòng bật cười, dứ tay như muốn gõ đầu sư đệ một cái:
“Nhóc này, để Điển trưởng lão nghe được coi đệ làm sao sống sót!”
“Vậy mấy huynh đừng ai tiết lộ nhé, đệ cũng sợ ông ấy lắm!” Giả Củ le lưỡi làm mặt quỷ.
“Thế thì đệ phải chung mớ gia vị của đệ cho chúng ta đấy, không thì không được đâu!” Ngạc Thật cũng hùa vào, nhưng gã vẫn đang nghĩ tới anh mình, Ngạc Nhiên khá mờ nhạt so với mọi người trong phái nên ít ai nhắc nhớ đến.
Song với gã những bữa cháo bồi[11] do anh nấu vẫn là ngon nhất, dạo gần đây hai anh em cũng chưa nấu lại món ấy lần nào, tựa hồ cái vị mềm xốp của bẹ khoai và bùi của đậu cùng thanh đạm của hạt gạo nở bung vẫn ám ảnh anh em gã. Đời có lúc lên voi xuống chó, có khi vênh mặt cũng có khi méo mặt nhưng hương vị đó vẫn bình thản như vậy, dù hai anh em đã làm nguyên sĩ vẫn không quên cái vị bình phàm mà ngon lành ấy.
Trông thấy Ngạc Thật cùng Thuận Tòng và cả Giả Củ thấp thoáng đằng xa, Ngạc Nhiên cùng Sầm Lai đều hết buồn ngủ vội vàng đứng ra cửa hang ngóng xem. Sầm Lai đã thấy con nai cùng hai loại củ, riêng họ Ngạc lại chỉ thấy em mình thôi, còn nguyên vẹn là tốt rồi. Đội thám bảo sẽ nấu ăn dã ngoại, nào biết phía trước, những phong ba đang dấy khởi từ từ.
**** CHÚ THÍCH [1] Tìm soát là sưu 搜, hiểm quái là ma 魔, mệnh lệnh là lệnh 令. Sưu ma lệnh 搜魔令 là tên một nhiệm vụ đặc biệt nhằm truy nã đệ tử phe ma đạo của Nhã Vận Tông (theo truyện). [2] Trốn chạy là bôn 奔, đánh nhau là chiến 戰. Bôn chiến 奔戰 nghĩa là vừa đánh vừa rút chạy. [3] Tiêu chuẩn màu xà cừ trong kỹ thuật khảm sen lọng. [4] Sợ hãi (phương ngữ). [5] Đóng, khép là bế 閉; cứng nhắc, cố định là tử 死; then cửa là quan 關. Bế tử quan 閉死關 hàm nghĩa đóng chặt cửa không ra ngoài hoặc không tiếp khách, nhằm ẩn cư lâu dài hoặc đoạn tuyệt việc giao du với bên ngoài. [6] Hay, giỏi là thiện 善. [7] Âm thanh trong trẻo là linh 泠, tiếng nhạc là âm 音. Linh âm 泠音 tức tiếng âm nhạc trong trẻo đồng thời là tên cấp bậc trưởng lão của Nhã Vận Tông (theo truyện). [8] Phần của cải dùng vào việc thờ phụng, tu sửa mộ phần của tổ tiên và thân quyến vừa mất gọi là hương hoả. Mở rộng nghĩa ra thì hương hoả chỉ chung việc tế tự giỗ quải, chăm sóc nhà từ đường thờ gia tiên hay công việc tảo mộ. [9] Tình cảm thắm thiết giữa vợ và chồng gọi là tình hương lửa. Từ nghĩa này bắt sang nghĩa tình cảm đôi lứa với nhau. [10] Chữ lầu 楼 gồm chữ mộc 木 (cây), chữ mễ 米 (gạo) và chữ nữ 女 (cô gái) ghép lại mà thành. [11] Cháo nấu từ gạo, đậu xanh nhừ, bẹ môn (thân cây môn) xắt khúc, đậu bắp bỏ đầu, tôm tép lột vỏ, thịt cá lóc hoặc lươn… khi thưởng thức không cần kèm rau, gọi là cháo bồi.