Khai Phá Cổ Mộ

Chương 53: Bi Thương Của Cuộc Viễn Chinh.



 

Tôi không kìm được bước nhanh hơn, vì tôi biết sự thật rất có thể đang ở ngay phía trước!

 

Kết quả là lão Giang lại đá cho tôi một cú vào mông:



“Thằng nhóc, nhớ kỹ lời ta! Một khi đã vào trong mộ thì dù là lúc nào cũng phải giữ cảnh giác. Nếu không, chỉ cần một cái móc nhỏ cũng đủ khiến mày lật thuyền trong mương — đây là điều sư phụ đã dạy mày rồi.”

 

Lão Giang đang nhắc tôi đừng để lời nguyền làm mình mất lý trí, phải chậm rãi từng bước mà đi.

 

Chúng tôi mang theo những nghi vấn vòng qua hố tuẫn táng, dọc đường chỉ thấy những mái vàng chói lọi và tường thành sừng sững của vương thành, chẳng mấy chốc đã đi đến cổng ra. Nhưng không ngờ, vị trí cổng lại dẫn vào bên trong bụng một ngọn núi khổng lồ.

 

Hai bên cửa là hai pho tượng người khổng lồ uy nghi sừng sững. Hai pho tượng này hẳn được đúc theo kích thước thật của tộc người khổng lồ khi còn sống: cơ bắp cuồn cuộn, mình khoác giáp đồng, tay cầm rìu sắc, chỉ cần vung nhẹ cũng đủ c.h.é.m người làm đôi.

 

Tôi biết loại binh khí ấy thời Thương được gọi là “việt”, chỉ có thị vệ thân cận của hoàng tộc mới được phép sử dụng.

 

Đứng trước hai pho tượng cao gần ba mét, chúng tôi chỉ cảm thấy một luồng khí thế mạnh mẽ không nói nên lời, bản thân như nhỏ bé đi mấy phần, chẳng khác nào người tí hon bước ra từ xứ sở người khổng lồ.

 

Nghĩ lại, nếu quân đội nhà Thương khi ấy có những người khổng lồ như thế xuất trận, e rằng địch chưa kịp đ.á.n.h đã bị dọa đến c.h.ế.t khiếp.

 

Kỳ lạ là, dưới chân hai pho tượng ấy lại có đặt hai món đồ đồng kỳ lạ, trông như hai vị thần canh cửa đang trấn áp một thế lực tà ác nào đó…

 

Ánh mắt tôi lập tức bị hấp dẫn bởi món đồ đồng ấy, liền hỏi: “Sao ở đây lại có nhiều đỉnh thế? Mà thứ bị giẫm dưới chân kia là gì vậy?”

 

Nghe tôi hỏi, lão Giang khẽ lắc đầu: “Không phải đỉnh, là tôn.”

 

“Tôn?” Tôi ngạc nhiên nhìn ông.

 

Lão Giang chỉ tay nói: “Đúng vậy, đây chính là thứ được ghi chép trong sách cổ — thanh đồng tiêu tôn, hay còn gọi là ‘thanh đồng ô tôn’. Thời Thương, người ta dùng nó trong tế lễ quỷ thần. Cậu nhìn kỹ đi, chẳng phải hình dáng nó giống đầu cú mèo sao?”

 

Được ông nhắc, tôi nhìn lại mới nhận ra quả thật giống như đầu chim cú. Không ngờ đi đến tận đây lại một lần nữa bắt gặp hình tượng cú mèo — quả nhiên loài này đúng là sứ giả giao tiếp giữa người và thần linh.

 

Lúc này Bạch Thủy bước đến, nói: “Nhóc con, học thêm từ sư phụ đi. Thời Thương, ‘tôn’ là một loại đồ đựng rượu bằng đồng, nhưng phần lớn không phải để người uống, mà là dâng cho quỷ thần uống. Ý nghĩa là mong quỷ thần sau khi uống rượu xong sẽ giúp người dâng cúng trừ đi bệnh tật.”

 

“Chúng tôi từng khai quật nhiều hố tế lễ quanh khu vực Âm Khư, trong đó đều có tôn, nhưng chưa từng gặp chiếc thanh đồng ô tôn nào tinh xảo như thế này. Nhìn hình dáng, đường nét, đúng là sống động như thật. Điều đó chứng tỏ người dâng cúng có lẽ đã cầu khẩn điều gì rất lớn, bệnh tình cũng hẳn là vô cùng nghiêm trọng… Chẳng lẽ chủ nhân ngôi mộ này c.h.ế.t vì một căn bệnh thần bí nào đó?”

 

“Khoan đã, trên này hình như có khắc chữ.” Bạch Thủy chợt kêu lên, ánh mắt lóe sáng, để lộ ra sự phấn khích của một nhà khảo cổ.

 

“Lão Lỗ, đưa túi đồ nghề cho tôi!” Bạch Thủy gọi lớn.

 

Lỗ Bảo Bình ở phía sau lập tức ném cho anh một cái ba lô. Bạch Thủy lấy ra chiếc kính lúp, cúi sát xuống xem xét, chỉ thấy khắp thân tôn chi chít những dòng chữ nhỏ như hạt gạo — đều là chữ giáp cốt.

 

Miễn không phải là loại chữ hiếm khó đọc, thì không làm khó được anh. Anh vừa xem vừa dịch, tốc độ nhanh đến mức ngay cả lão Giang cũng gật đầu tán thưởng. Thì ra trên chiếc thanh đồng ô tôn này lại ghi chép một đoạn lịch sử bí ẩn và kinh hoàng…

 

Chuyện kể rằng vào thời vua Thương Vũ Đinh — một minh quân hiếm có trong trăm năm, vừa giỏi trị quốc, vừa giỏi cầm quân, lại được dân chúng yêu mến.

 

Dưới trướng ông có mười vạn binh sĩ được trang bị vũ khí đồng tinh nhuệ, dũng mãnh vô song, nhanh chóng đ.á.n.h bại các bộ tộc Khương, Di, Hổ và nhiều nước nhỏ khác.

 

Ngay cả bộ tộc xa xôi tên là Phòng Phong cũng thần phục, dâng lên bốn người khổng lồ dũng mãnh nhất trong tộc làm cống phẩm cho Vũ Đinh. Vũ Đinh lại ban bốn người khổng lồ ấy cho người vợ mà ông yêu thương nhất — hoàng hậu Phụ Hảo, để làm hộ vệ thân cận.

 

Phụ Hảo vừa là hoàng hậu cao quý, vừa là nữ tướng anh hùng, được binh sĩ hết lòng kính trọng, là sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp và khí phách. Có bốn người khổng lồ bảo vệ, Vũ Đinh mới có thể yên tâm.

 

Ngân Linh ngạc nhiên há hốc miệng, nhìn tượng khổng lồ rồi lại quay sang hố tuẫn táng vừa đi qua, hỏi: “Trên đời thật sự có người khổng lồ sao? Cả một tộc như thế ư?”

 

Lỗ Bảo Bình, người đang giúp Bạch Thủy, thấy cô bé đáng yêu liền cười đáp: “Tất nhiên là có rồi! Cô gái, nên đọc sách nhiều hơn một chút. Trong sách ‘Quốc ngữ’ có ghi lại một câu chuyện thú vị: Năm xưa, khi nước Ngô tấn công ngoại quốc, họ phát hiện một đoạn xương người khổng lồ lớn đến mức phải dùng một cỗ xe riêng để chở.

 

Vua Ngô liền phái sứ giả hỏi Khổng Tử xem có biết nguồn gốc của khúc xương ấy không.

 

Khổng Tử trả lời rằng: Thời Đại Vũ trị thủy, ông từng triệu tập các thủ lĩnh bộ tộc đến họp, có một thủ lĩnh của tộc Phòng Phong đến muộn, bị c.h.é.m g.i.ế.c và phân thây. Một đoạn xương của hắn lớn đến mức phải dùng xe để chở. Điều đó có nghĩa là tộc Phòng Phong chính là tộc người khổng lồ.”

 

“Khoan đã,” Bạch Thủy vừa quan sát ô tôn vừa nói, “đoạn lịch sử này tôi chưa từng nghe… Hình như có nói rằng trong một lần chinh chiến, Phụ Hảo đã bị trúng lời nguyền…”

 

Tôi nghe đến “lời nguyền” thì lập tức thấy hứng thú, vội hỏi: “Lời nguyền gì vậy?”

 

Bạch Thủy đáp: “Thời Thương, văn có Vũ Đinh trị quốc, võ có Phụ Hảo cầm quân. Hai người vừa là vợ chồng, vừa là tri kỷ, yêu thương lẫn nhau, khiến quốc gia đạt đến thời kỳ phồn thịnh — sử sách gọi là thời kỳ ‘Vũ Đinh Trung Hưng’.

 

Nhưng sự yên bình đó đã bị một biến cố phá vỡ.

 

Một ngày nọ, một binh sĩ nơi biên giới hấp hối được đưa về kinh, sau khi báo cáo chiến sự xong thì trút hơi thở cuối cùng.

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

 

Vũ Đinh nổi giận, vì một nước phương Bắc tên là Mục Quốc đã phản loạn!

 

Để dẹp yên phản loạn, Phụ Hảo, người chỉ mới đoàn tụ với chồng chưa đến một tháng, đã tự mình ra trận. Nàng dẫn theo đội quân tinh nhuệ nhất của nhà Thương, tiến đ.á.n.h Mục Quốc.

 

Vũ Đinh thì đốt xương rồng để bói cho vợ, được quẻ rằng: “Cầu vồng hiện ở phương Bắc, uống nước sông xuyên.”

 

Thế nhưng, từ đây văn tự trên tôn lại trở nên kỳ lạ, không ghi rõ kết quả trận chiến, chỉ nói mơ hồ rằng Phụ Hảo đã bình định phản loạn và mang về một món đồ đồng thần bí, tên là “Mãnh Hổ Thực Nhân ửu” — nghĩa là chiếc bình đồng hình hổ ăn người.

 

Sau khi trở về, Phụ Hảo ngã bệnh. Vũ Đinh, người chồng hết mực yêu thương bà đã mời khắp danh y thiên hạ đến chữa trị, nhưng không ai có thể cứu được. Cuối cùng, hai người âm dương cách biệt.

 

 

Những binh sĩ từng theo bà chinh phạt khi ấy cũng đều phải chịu một lời nguyền khủng khiếp.

 

Ngay cả hai vị người khổng lồ thuộc tộc Phòng Phong, vì bảo vệ Phụ Hảo mà cũng hy sinh.

 

Để tưởng nhớ họ, Vũ Đinh đã phá lệ, chôn cất hài cốt của họ tại nơi này. Với các chiến sĩ nhà Thương, đó là vinh dự cao nhất có thể có được.

 

“Tư liệu có nói rõ họ đã bị trúng loại lời nguyền gì không?” – tôi không kìm được liền hỏi.

 

Bạch Thủy lắc đầu đáp: “Không, hiện giờ chỉ biết đó là một lời nguyền vô cùng đáng sợ! Dù là ngự y hay pháp sư đều bó tay. À đúng rồi, hình như lời nguyền đó có liên quan đến đôi mắt, vì tôi thấy trong giáp cốt văn có khắc rất nhiều con mắt kỳ lạ.”

 

Đôi mắt!

 

Tôi và lão Giang nhìn nhau, cả hai đều thấy trong mắt đối phương ánh lên sự cảnh giác. Lão Giang lập tức không nén nổi, tiến lên cầm lấy kính lúp của Bạch Thủy để xem kỹ lại con cú đồng. Quả thật, trong phần ghi chép ấy, người xưa viết về lời nguyền rất mơ hồ, chẳng nói rõ chi tiết nào.

 

Chúng tôi hoàn toàn không tìm được thêm manh mối.

 

Bạch Thủy thì vẫn chìm trong phấn khích, không hề nhận ra sắc mặt nghiêm trọng của chúng tôi, mà chỉ say sưa nói: “Họa tiết phượng hoàng trên đỉnh đồng, cùng những người khổng lồ canh mộ trong hố chôn, dường như đều đang nói với chúng ta rằng chủ nhân thực sự của khu di tích Âm Khư này chính là Phụ Hảo!”

 

Xây dựng hẳn một tòa thành ngầm chỉ để bồi táng cho một người phụ nữ — điều này không chỉ cho thấy thân phận của bà cao quý thế nào, mà còn chứng minh chồng bà yêu thương đến mức nào, thậm chí có thể nói là yêu bà hơn cả bản thân mình.

 

Nhìn khắp thời nhà Thương, có lẽ chỉ Phụ Hảo mới xứng đáng với vinh dự ấy. Lão Giang không phủ nhận lời của Bạch Thủy, chỉ gật đầu nói: “Trên giáp cốt mà chúng tôi tìm thấy khi xưa cũng có ghi chép: ‘Có cầu vồng mọc ở phương bắc, hút nước từ sông’. Giờ xem ra, việc xác định chủ mộ là Phụ Hảo gần như chắc chắn rồi.”

 

Tôi khẽ kéo áo lão Giang, nhắc ông hỏi thêm về lời nguyền, biết đâu Bạch Thủy còn biết điều gì.

 

Lão Giang liếc tôi một cái, bảo tôi bình tĩnh, rồi hỏi một cách tự nhiên: “Chuyên gia Bạch này, ông có nghiên cứu gì về nước Mục không? Tôi là lần đầu tiên nghe nói đến quốc gia này đấy.”

 

Bạch Thủy cau mày, nói rằng mình cũng chưa từng nghe qua chuyện Phụ Hảo chinh phạt nước Mục.

 

Tuy vậy, ông xác nhận rằng Phụ Hảo quả thật từng chinh phục nhiều tiểu quốc, và cuối cùng qua đời sớm vì bệnh. Còn chuyện lời nguyền, ông không tin chút nào.

 

Lúc này, Đỗ Văn Bân đẩy gọng kính, xen vào: “Phía bắc triều Âm Thương có một tiểu quốc tên là Mục. Người Mục tôn sùng đôi mắt, lấy mắt làm biểu tượng. Sau đó bị nhà Âm Thuơng diệt quốc, rồi lịch sử cũng chấm dứt từ đó.”

 

Không ngờ Đỗ Văn Bân lại biết rõ đến vậy. Bạch Thủy lập tức tỏ vẻ hứng thú, ra hiệu cho anh ta nói tiếp.

 

Đỗ Văn Bân chỉ vào ký hiệu hình con mắt lặp lại nhiều lần trên con cú đồng, nói:

 

“Bạch Thủy nói đúng, lời nguyền này quả thật liên quan đến đôi mắt! Nó dường như khiến tất cả kẻ xâm lược mọc ra những con mắt quỷ không thuộc về con người, rồi từ từ bị dày vò đến c.h.ế.t.”

 

“Dù khi đó đại quân nhà Thương thắng trận liên miên, thậm chí diệt sạch nước Mục, nhưng nước Mục vẫn kịp giáng xuống Phụ Hảo và đoàn quân của bà lời nguyền độc ác nhất…”

 

Lời của Đỗ Văn Bân khiến tôi bừng tỉnh. Tôi nhìn anh ta nói: “Vậy là lời nguyền đó thực sự có hiệu lực! Bộ xương khổng lồ kia chính là bằng chứng rõ ràng nhất — việc hắn mọc con mắt thứ ba chính là hình phạt từ lời nguyền của nước Mục.”

 

“Đúng thế. Khi tôi khảo cổ ở đất Xuyên Thục, từng thấy một mặt nạ đồng ngàn năm tuổi, trên trán cũng có con mắt thứ ba. Trong lịch sử chưa từng ghi chép về ngoại hình của người nước Mục, nhưng nếu họ giống hệt con người bình thường, thì chẳng có gì đáng phải che giấu cả. Chỉ có thể giải thích rằng diện mạo của họ khác thường đến mức khiến xã hội sợ hãi, nên người xưa mới cố tình tránh ghi lại.

 

Ngay cả trên con cú đồng này cũng khắc rất mập mờ.” – Đỗ Văn Bân chậm rãi nói. Hiện vật là chứng nhân trung thực nhất của lịch sử, còn chữ viết thì có thể bị con người tùy ý thay đổi.

 

Tôi rùng mình, hít sâu một hơi. Không biết năm xưa Ôn Thao đã trải qua chuyện gì mà bị nhiễm cùng một lời nguyền với Phụ Hảo? Còn thứ mà Phụ Hảo mang về – cái vật “hổ ăn người” ấy  rốt cuộc là vật gì?

 

Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️

Diệt cả một quốc gia, nhưng chỉ mang về duy nhất một vật… Thứ đó chắc chắn không hề đơn giản.

 

Một bí ẩn vừa được hé mở, thì lại có thêm một bí ẩn lớn hơn bao trùm lấy tôi, khiến tôi gần như nghẹt thở. Đúng lúc đó, tôi nghe thấy những tiếng rắc rắc vang lên.

 

Như thể có thứ gì đó đang vỡ vụn, từng mảnh từng mảnh rơi xuống đất. Cùng lúc ấy, giọng hét của trung đội trưởng Trương vang lên bên tai:



“Cẩn thận, tượng sống dậy rồi!”

 

Chúng tôi quay phắt lại — chỉ thấy hai pho tượng người khổng lồ bên cạnh, lớp đồng xanh han gỉ trên thân đang dần tróc ra, để lộ ra bên trong hai con mắt khổng lồ… Và điều khiến tôi kinh hãi nhất là, đôi mắt ấy… còn chớp về phía tôi!