Cô ấy tuy đanh đá, nhưng lại rất quý “bạn bè” lúc cả đội bơi, cô vẫn giơ cao cái giỏ tre to đùng, sợ nước làm ướt đàn cổ trùng bên trong. May mà có Hạ Lan Tuyết kéo cô cùng bơi sang được bờ.
Xem ra cái “tật hành đệ tử” chỉ có lão Giang là di truyền được thôi… Trung đội trưởng Trương cho lính nhóm lửa, hong khô quần áo và phát lương khô cho mọi người.
Đi suốt quãng đường dài thế này, đúng là cần nghỉ ngơi lấy sức. Lão Giang lấy ra một chiếc máy ảnh nhỏ chỉ bằng nửa bàn tay, giơ lên chụp về phía vương thành.
Tôi tò mò hỏi: “Cái gì thế?”
Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha. Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️
Ông cười:
“Máy ảnh siêu nhỏ, loại gián điệp nước ngoài dùng, có ống kính zoom 20mm. Kỳ Lân tốn cả khối công sức mới có được đấy.”
“Đã vào tận Âm Khư rồi, phải ghi lại mọi thứ quý giá nhất.”
Các chuyên gia khảo cổ trầm trồ:
“Những tấm ảnh này mà đăng báo, cả thế giới sẽ phải nhớ đến Âm Khư!”
Nhưng khi đang chụp, lão Giang đột nhiên ngừng lại, ánh mắt dán chặt về phía tòa vương thành — Cánh cổng khổng lồ kia… đang mở!
Cánh cửa đồng cao hai mét nặng nề, khóa đồng han gỉ rơi trên đất đã bị người ta phá vỡ.
Điều đó chứng tỏ — dù Ôn Thao khi xưa bị ruồi m.á.u phục kích, ông vẫn dẫn được tàn quân xông vào Âm Khư!
Sau khi vắt khô quần áo, ăn tạm chút đồ nóng, cả đội nghỉ chừng nửa canh giờ rồi lại tiếp tục tiến lên.
Lúc này, không một ai còn nói đến chuyện rút lui nữa. Cũng chẳng ai bận tâm đến việc tìm lối ra — trên gương mặt mỗi người đều rạng rỡ niềm hân hoan.
Bởi lẽ, đây chính là nơi mà các nhà khảo cổ đã mơ cả đời được đặt chân tới. Dù có phải c.h.ế.t ở đây, họ cũng không còn điều gì hối tiếc.
Khi chúng tôi bước qua cổng thành, mới phát hiện ra tòa vương thành ngầm này còn tráng lệ hơn tưởng tượng rất nhiều!
Nơi đây chẳng khác nào một kinh đô thu nhỏ. Vừa vào cửa là một con đường ngựa rộng lớn như trục chính, chia toàn thành làm hai nửa: bên trái là khu dân cư của dân thường thời Thương, bên phải là khu chợ buôn bán.
Chúng tôi vừa đi vừa kinh ngạc, dọc đường bày san sát những quầy hàng có chỗ bán bò dê, có chỗ bày kê, lúa và các loại ngũ cốc khác.
Chỉ là, những người bán hàng kia không phải người sống, mà đều là tượng đá được chạm khắc vô cùng tinh xảo.
Thậm chí trên một vài quầy còn có chén rượu bằng đồng, tơ lụa, cùng những nô lệ ngoại tộc bị trói gô, quỳ rạp trên mặt đất, như thể đang được đem ra bán.
Chỉ nhìn thôi cũng thấy thời ấy triều Thương hùng mạnh đến mức nào — không chỉ chinh phục man di, mà trình độ kinh tế còn đạt hàng đầu thế giới.
Bạch Thủy không kìm được thán phục: “Không ngờ mấy nghìn năm trước đã có cảnh tượng như vậy, thật khiến người ta kính nể nền văn minh Hoa Hạ.”
Nhưng xã hội khi ấy vẫn bị giới hạn bởi chế độ đẳng cấp nghiêm ngặt, của cải chỉ nằm trong tay vương tộc; còn nô lệ, chỉ là công cụ — hay đúng hơn, là gia súc có thể mua bán, g.i.ế.c chóc tùy ý.
Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong. Nơi đây dường như cố ý tái hiện toàn bộ kinh đô triều Âm Thương, cứ đi một quãng, hai bên lại xuất hiện những chiếc đỉnh đồng kỳ lạ.
Bạch Thủy giải thích:
“Thời đó, người Thương chưa có khái niệm mét hay thước, họ đo chiều dài bằng quãng xe ngựa đi được. Cứ nhìn khoảng cách giữa hai chiếc đỉnh kia, hẳn là đủ chỗ cho chín cỗ chiến xa — người ta gọi đó là ‘khoảng cách chín xe’.
Còn hai bên đường, bên trái gọi là Minh Ốc, bên phải gọi là Minh Thị — người xưa tin vào quỷ thần, cho rằng linh hồn vẫn tồn tại sau khi c.h.ế.t. Chỉ cần được chôn theo nhiều đồ tùy táng, họ có thể tiếp tục hưởng vinh hoa phú quý ở thế giới bên kia.”
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
Nói đến đây, Bạch Thủy bỗng ngừng lại, giọng run run:
“Nhưng mà… dùng cả một tòa thành để làm đồ tùy táng, chuyện này đúng là xưa nay chưa từng nghe, chưa từng thấy! Quy mô này còn vượt xa những gì sách sử ghi chép về lăng mộ các đời vua Thương!”
“Vả lại, trên các đỉnh đồng kia khắc toàn là phượng hoàng văn. Thời Thương tôn long trọng phượng, mà phượng văn chỉ dùng cho nữ vương trong hoàng thất.”
“Chẳng lẽ… chủ nhân ngôi mộ này là một người phụ nữ?”
Nói xong, ngay cả Bạch Thủy cũng tự thấy khó tin. Bởi vì, một vương thành dưới lòng đất hùng vĩ như thế, mức độ xa hoa này… đến vua chính thống của triều Thương cũng chưa chắc có được — sao lại dành cho một người con gái?
Lão Giang không phủ nhận, chỉ mỉm cười nói: “Trong sử Thương, có mấy người phụ nữ thật sự có tên tuổi đâu.”
Tôi lập tức nghĩ tới Phụ Hảo — người nữ tướng từng chinh chiến bốn phương vì chồng, oai hùng tuyệt sắc.
Đúng lúc ấy, trung đội trưởng Trương đi mở đường phía trước đột nhiên hét lớn: “Các anh xem này, phía trước hình như lại có một cái hố lớn!”
Chúng tôi vội chạy tới, chỉ thấy một cái hố vuông vức, không phải tự nhiên mà có — mà là hố chôn người sống.
Cái hố ấy rộng vô cùng, gần như chiếm nửa tòa thành, bên trong chất đầy vô số bộ xương trắng xóa. Lão Giang liếc qua đã nhận ra:
“Đây là hoạt nhân tuẫn táng của triều Thương! Tất cả trong đó đều là nô lệ được chôn theo chủ mộ.”
Bạch Thủy lập tức giảng giải về chế độ nô lệ của thời ấy:
Triều Thương sùng bái võ lực, thường xuyên đem quân đi chinh phạt các bộ lạc không thần phục.
Trong những cuộc chiến đó, bắt được vô số tù binh kẻ bị g.i.ế.c tại chỗ, người bị bắt làm nô lệ gọi là “thần”, nữ tù thì dâng cho quý tộc làm “thiếp”.
Một đất nước dù hùng mạnh đến đâu, vẫn có những mặt tàn khốc và lạc hậu. Tôi đang nghĩ vậy thì bỗng liếc thấy một thứ gì đó khủng khiếp ở góc hố, sợ đến nỗi lùi liền mấy bước, suýt ngã ngồi xuống đất.
Thấy tôi kinh hoàng, lão Giang liền hỏi có chuyện gì. Tôi run rẩy chỉ vào góc hố, nơi đó có một bộ xương khổng lồ, hỏi:
“Cái đó… cũng là nô lệ sao?”
Mọi người đều nhìn theo. Chuyên gia khảo cổ Lỗ Bảo Bình lập tức lấy thước đo, rồi kinh ngạc kêu lên:
“Bộ xương này ghép lại cao ít nhất hai mét rưỡi! Hộp sọ cũng to gấp ba lần người thường!”
Ông ta lắp bắp: “Người cổ đại chẳng phải thường thấp hơn người hiện đại sao? Sao lại có thứ khổng lồ thế này?”
Cầu Tú Tú nói: “Thế gian không thiếu chuyện lạ, có khi chỉ là cá biệt thôi.”
Nhưng lão Giang lại lắc đầu, trầm giọng:
“Không chừng… đây chính là di cốt của người khổng lồ trong truyền thuyết.”
“Người khổng lồ?” — mọi người đều kinh hãi. Ngay lúc ấy, tôi bỗng giật mình hét khẽ, làm lão Giang cũng giật theo.
Ông lập tức gõ nhẹ sau cổ tôi một cái:
“Giật mình cái gì đấy, ra ngoài không mang theo lá gan à?”
Tôi run run chỉ vào giữa trán bộ xương khổng lồ, ra hiệu ông nhìn kỹ. Chỉ thấy giữa trán rộng lớn ấy lõm sâu một hốc tròn, giống hệt dấu vết trên những bộ hài cốt mà chúng tôi từng thấy ở Trấn Sấm.
Người dân Trấn Sấm là do trúng lời nguyền, đến tuổi bốn mươi mới mọc con mắt thứ ba — vậy còn gã khổng lồ này thì sao?
Lão Giang hiểu ý, sững người rồi thấp giọng nói: “Con mắt thứ ba… lẽ nào hắn cũng trúng cùng một lời nguyền?”
Hay là… hắn vốn dĩ đã sinh ra với con mắt đó?
Một cảm giác kỳ lạ trào dâng trong lòng tôi — không phải sợ hãi, mà là phấn khích.
Biết đâu, lời nguyền ở Trấn Sấm thật sự có thể được chấm dứt trong tay tôi. Như thế, tôi mới có thể xứng đáng với người trưởng trấn đã khuất, và để mẹ tôi có thể rời khỏi nơi tăm tối dưới lòng đất ấy, trở lại ánh sáng mặt trời.