Khai Phá Cổ Mộ

Chương 171



 

Vốn dĩ đang xem trò vui, tôi lập tức hoảng hốt. Tôi chỉ vào cái hố đen ngòm kia, rồi lại nhìn Ban Ban phía sau mình:

 

“Ông rốt cuộc là trị bệnh hay định chôn sống người ta vậy?”

 

Lão Tiền chỉ thản nhiên đáp một câu: “Cậu còn muốn cái đại xác ấy tỉnh lại nữa không?”

 

Bất đắc dĩ, tôi chỉ có thể nghe theo lời lão!

 

Nhưng vừa đặt Ban Ban xuống hố, lão đã bảo tôi lấp đất. Lúc này thì tôi không chịu nổi nữa, chỉ thẳng mũi lão quát: “Ông đây là coi mạng người như cỏ rác hả?”

 

Lão Tiền không biết từ đâu mò ra một cành liễu nhỏ, ngậm trong miệng nhai ngấu nghiến liếc tôi lạnh tanh, nói:

 

“Trẻ con nông cạn! Bạn nhỏ của cậu bị chôn ở di tích Âm Khư mấy nghìn năm rồi, chẳng phải sớm đã c.h.ế.t rồi sao. Xác không như người. Người mà chôn xuống đất, chưa được mấy phút là tắt thở. Nhưng chôn xác xuống đất lại có thể liên tục hấp thụ âm khí trong phạm vi hàng chục dặm.”

 

“Nơi tôi chọn là một huyệt mộ tốt nhất gần vị trí Kỳ Lân. Trên có ánh trăng, dưới có nghĩa địa, thích hợp dưỡng thi nhất.”

 

“Nếu cậu muốn đại cương thi này ngày nào cũng như cà tím bị sương đánh, thì cứ khiêng nó từ đâu về lại chỗ cũ.”

 

“Nếu đã tin tôi, thì mau làm theo! Một thằng thanh niên mà lề mề thế, làm nên trò trống gì?”

 

Lời lão tuy khó nghe nhưng quả thật có lý. Hơn nữa lúc này tôi cũng chẳng có cách nào khác.

 

Đã nhờ người thì đừng nghi ngờ. Đã nghi ngờ thì đừng nhờ người. Lúc cầu cứu lão Tiền là tôi quyết định rồi, giờ mà bán tín bán nghi thì thành ra nực cười. Tôi lập tức cầm xẻng, từng xẻng đất phủ xuống, chẳng bao lâu đã lấp kín thân Ban Ban.

 

Ngay cả khuôn mặt hoang dã, ngang tàng kia cũng bị che khuất…

 

Làm xong tất cả, liền thấy lão Tiền lôi từ cái bao tải thần bí sau lưng ra một cây nhỏ dài chừng ba mươi phân!

 

Lão làm rất nhanh, đem cây nhỏ trồng ngay trên mộ Ban Ban. Tôi tò mò hỏi:

 

“Ông làm cái gì thế? Trồng cây làm gì?”

 

Lão lấy luôn cành liễu trên miệng cắm vào đất, vừa làm vừa giải thích:

 

“Có nghe câu này chưa? ‘Đào nuôi người, hạnh hại người, dưới gốc mận chôn người c.h.ế.t.’ Bao giờ cái cây nhỏ này nảy mầm kết trái, thì khi đó cậu đào đại cương thi lên. Đảm bảo trả lại cho cậu một Ban Ban sống động như mới.”

 

“Được rồi, về ngủ đi.”

 

Lão Tiền phủi tay, quay lại theo đường cũ. Dọc đường còn dặn tôi cứ bảy ngày phải mang nước đến tưới một lần. Tôi lấy sổ ra ghi chép, hỏi còn điều gì cần chú ý không.

 

Lão nói không, chỉ có chuyện tưới nước thôi.

 

Khi về tới nơi, trời vẫn chưa sáng. Lão Giang nhìn đồng hồ, bảo tôi đừng ngủ nữa, tốt nhất thay một bộ đồ nghiêm chỉnh.

 

“Một canh giờ nữa, tôi sẽ đưa cậu đến một nơi!”

 

Lúc này ông ấy thu lại vẻ cà lơ phất phơ hằng ngày, trên mặt hiếm khi lộ ra vẻ nghiêm túc. Tôi hỏi:

 

“Đi đâu vậy?”

 

Lão Giang chỉ đáp một câu: “Đến một nơi cậu chưa từng đặt chân tới.”

 

Về đến phòng, tôi lục tung đồ đạc mới tìm được bộ Trung Sơn màu xám, đồng phục đặc chế của Ngân Lân.

 

Sau khi chỉnh tề quần áo, tôi còn đứng trước gương vuốt ít dầu lên tóc. Thu dọn một hồi, trông cũng ra dáng. Không bao lâu sau, trong ký túc xá vang lên tiếng gõ cửa “cốc, cốc, cốc”.

 

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

Mở cửa ra, đúng là lão Giang.

 

Hôm nay ông ấy ăn mặc đặc biệt lạnh lẽo: từ đầu đến chân đều là màu đen, trên tay lại ôm một bó hoa trắng. Đó là một bó cúc trắng tươi, loài hoa thường dùng để tưởng niệm và ai điếu. Theo ghi chép lịch sử, nó từng được chọn để dâng lên Giáo hoàng La Mã Thánh Mark, người được công nhận là giáo hoàng có khí chất cao quý nhất. Từ đó, cúc trắng mang một ý nghĩa: thần thánh thanh khiết, bảo hộ sự bình an của một phương trời.

 

Tôi theo lão Giang xuống lầu, thấy Hạ Lan Tuyết và Ngân Linh đã đợi sẵn từ lâu.

 

Hạ Lan Tuyết cũng mặc một bộ Hán phục đen tuyền, búi tóc tao nhã, để lộ chiếc cổ trắng như tuyết. Trong tay nàng cũng cầm một bó hoa trắng.

 

Ngân Linh lại mặc một chiếc váy ngắn tay màu xanh mực, toàn thân không một màu sắc tươi vui nào, bước đi cũng không còn tung tăng như mọi khi, dường như đã biết trước chuyện gì.

 

Tới gần hai người, tôi định hỏi hôm nay rốt cuộc là ngày gì. Nhưng lão Giang chỉ phất tay: “Lên xe trước đã.”

 

Trời hôm nay không được đẹp. Từ sớm đã có một tầng sương mỏng phủ xuống ngoại ô Bắc Bình. Tay lái của lão Giang rất vững. Ông ngồi ghế lái, đưa chúng tôi vòng qua khu vực Kỳ Lân, rồi lên tới một dãy núi đối diện Kỳ Lân từ xa.

 

Ngọn núi ấy trập trùng liên tiếp, từ xa nhìn lại, trong mây mù lại hiện lên chút sắc lam nhạt, đẹp vô cùng.

 

Theo lẽ thường, càng lên núi sương sẽ càng dày. Nhưng khi mặt trời ló rạng, sương lại tan đi, trong không khí chỉ còn lại hơi ẩm nhẹ như sương khói.

 

“Có nắng thì sương sẽ tan thôi.” Không biết vì sao, trong đầu tôi bỗng thoáng qua một câu như vậy.

 

Chúng tôi bước từng bước trên ngọn núi vô danh ấy. Hương cỏ xanh lâu ngày không gặp phả vào mặt, khiến đầu óc tôi càng lúc càng tỉnh táo. Không lâu sau, cả nhóm đã tới lưng chừng núi. Nơi đó… lại dựng san sát vô số bia mộ trắng.

 

Lão Giang và Hạ Lan Tuyết không dừng lại, vẫn ôm hoa trắng, tiếp tục đi sâu vào. Còn tôi và Ngân Linh thì tò mò nhìn quanh. Và đúng lúc ấy, cả hai chúng tôi đồng thời phát hiện một điều khó tin. Tất cả bia mộ ở đây chỉ có hai dòng chữ.

Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️

 

Dòng thứ nhất là tên người đã khuất. Dòng thứ hai là năm sinh – năm mất.

 

Điều khiến người ta kinh ngạc nhất chính là: hơn trăm ngôi mộ ở đây, người c.h.ế.t bên dưới đều mang cùng một cái tên: Hoa Hạ.

 

Tôi kinh ngạc đến không nói nổi. Lão Giang bèn thản nhiên cất lời: “Còn nhớ ở Đôn Hoàng, cậu hỏi tôi vì sao lạnh lùng như vậy không? Nhìn đồng đội bỏ mạng mà chẳng chút d.a.o động?”

 

“Đó là bởi… tôi đã quá quen rồi.”

 

Tôi lập tức nhớ tới những lời ông từng nói. Và giờ phút này, lão Giang lại lặp lại chúng, dằn từng chữ:

 

“Nhiều khi, chúng tôi thậm chí còn không kịp chôn cất t.h.i t.h.ể đồng đội… đã phải vội vàng chạy đến chiến trường kế tiếp.”

 

“Họ sinh ra vô danh, c.h.ế.t cũng vô danh. Tất cả đều được gọi chung bằng một cái tên: Hoa Hạ.”

 

So với tận mắt chứng kiến, lời nói nào cũng trở nên nhỏ bé. Mỗi hàng, mỗi cột bia mộ trắng nơi đây đều là một sinh mạng từng sống. Họ đứng trước sau trái phải chúng tôi, mỉm cười nhìn lũ hậu bối.

 

Tất cả họ đều mang cái tên Hoa Hạ.

 

“Hoa Hạ, 1900–1927.”

 

“Hoa Hạ, 1885–1910.”

 

“Hoa Hạ, 1870–1931.”



 

Có người cuộc đời chỉ ngắn ngủi hai, ba mươi năm. Nhưng một người ngã xuống, lại có một người khác bước lên. Họ không ngừng ngã xuống, cũng không ngừng đứng dậy chỉ để bảo vệ quốc bảo.

 

“Vì sinh vì tử, tận lực báo quốc!”

 

Trong thoáng chốc, tôi dường như nhìn thấy vô số cánh tay giơ lên hướng về Kỳ Lân mà thề.

 

Họ sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Chiến đấu đến người cuối cùng. Và một ngày nào đó, nơi này sẽ có một tấm bia thuộc về tôi, về lão Giang, về Hạ Lan Tuyết và về Ngân Linh.

 

Khoảnh khắc ấy, điều tôi cảm nhận được không phải là sợ hãi, mà là một loại quy thuộc của linh hồn, một niềm thỏa mãn khó diễn tả như thể cả đời lang bạt cuối cùng đã tìm được ý nghĩa tồn tại của chính mình.