Hơi thở tử vong bao trùm lên vùng sa mạc trắng xóa ấy, đến mức không ai trong chúng tôi dám thở mạnh.
Tôi theo bản năng nhìn sang Ban Ban. Nếu con chim điêu kia đã cảm nhận được nguy hiểm, thì một xác ướp ngàn năm như hắn hẳn phải nhạy bén hơn gấp bội chứ?
Nhưng lạ thay Ban Ban vẫn ngồi yên trên lưng lạc đà, dáng dấp cứng ngắc như pho tượng. Không sợ hãi, cũng chẳng một chút cảm xúc nào d.a.o động. Nếu không biết, ai cũng tưởng hắn là một diễn viên đóng phim dân quốc đang tạo dáng giữa sa mạc.
Lão Giang gắt giọng:
“Lý Kinh Lam, bật đèn pin lên! Nạp đạn sẵn!”
Mặc dù nói với tôi, nhưng mọi người đều hiểu ý, ai nấy lập tức nhảy xuống lạc đà, toàn thân căng như dây đàn. Tôi và lão Giang đi đầu, Ban Ban – Ô Nha – Lâm Thu Thanh ở giữa, Hạ Lan Tuyết và Ngân Linh chốt phía sau.
Khi tất cả bật đèn pin, trong làn sương phía trước mơ hồ xuất hiện vài cái bóng kéo dài thấp thoáng như có người đang di chuyển. Chẳng lẽ… thật sự có quái vật?
Tôi nheo mắt nhìn kỹ, rồi khẽ kêu lên: “Không đúng… trông giống người hơn là quái vật.”
Tôi chỉ tay, lập tức mọi ánh mắt đều dồn về phía đó. Lão Giang do dự một chút rồi nói:
“Qua xem thử. Mọi người đừng tách ra.”
Chúng tôi bước chậm về phía những bóng người. Khi đến gần, tôi nhìn rõ có bảy người, dáng vẻ xa lạ, đang lê từng bước nặng nề trên cát. Họ mặc cùng loại trang phục: bộ đồ thám hiểm màu vàng nhạt, đội mũ tròn, mang ủng da…rõ ràng là một đội khảo sát chuyên nghiệp, trang bị đầy đủ.
Nhưng điều kỳ lạ là trên người họ phủ đầy bụi, quần áo cũ kỹ, kiểu dáng lỗi thời từ nhiều năm trước. Dọc đường chúng tôi đâu gặp dấu vết của đoàn thám hiểm nào khác. Họ từ đâu đến? Vì sao lại xuất hiện giữa sa mạc Vong Linh này?
Hàng loạt câu hỏi khiến tôi càng thêm cảnh giác. Khi nhìn kỹ hơn, tôi thấy trong nhóm ấy có mấy người là người Hoa, còn lại là người ngoại quốc da trắng. Ai nấy mặt mũi lạnh lẽo, ánh mắt trống rỗng, bước đi cứng nhắc, phát ra tiếng “tích tắc, tích tắc” đều đặn như những con rối bị điều khiển bằng dây.
“Cẩn thận, có gì đó không ổn.” Lão Giang hạ giọng cảnh báo.
Nhưng Lâm Thu Thanh đã giơ s.ú.n.g lên, hét: “Là người của Warner! Tôi thấy mặt bọn Tây rồi!”
“Không được manh động!” Lão Giang quát, song tiếng la đã khiến nhóm kia chú ý.
Tất cả đồng loạt dừng bước, rồi chậm rãi quay đầu lại. Khi thấy họng s.ú.n.g chĩa vào mình, một gã ngoại quốc cao gầy đi đầu mở miệng: “Hello!”
Ngay sau đó, một người Hoa trong đội dịch lại, giọng ôn hòa: “Các anh cũng lạc đường sao? Chúng tôi đã đi rất, rất lâu rồi.”
Nghe họ nói được, lại không tỏ ý thù địch, tôi cùng lão Giang liền tiến lên bắt chuyện.
Họ nói mình là một đội khảo sát khoa học Trung – Mỹ, đến đây nghiên cứu hiện tượng kỳ lạ của sa mạc Vong Linh. Trong lúc tìm hiểu, không may lạc đường.
Trong khi lão Giang nói chuyện, tôi kín đáo quan sát kỹ từng người. Hai người trong số họ xắn tay áo lên, lộ ra cánh tay trắng nhợt.
Tôi nhìn thấy rõ trên làn da ấy không có hình xăm bóng ma. Không phải người của Warner… nhưng nếu không phải thì họ là ai?
Sau khi nhóm người kia giới thiệu xong thân phận, đến lượt tôi và lão Giang. Hai thầy trò liếc nhau, vò đầu bứt tai chẳng biết nên bịa lý do gì để giấu thân phận của “Kỳ Lân”.
Nhưng điều kỳ lạ đã xảy ra họ chỉ trả lời câu hỏi của chúng tôi, chứ không hề hỏi ngược lại.
Họ không tò mò chúng tôi đến từ đâu, cũng chẳng quan tâm mục đích của chuyến đi này là gì. Ngay cả một chút cảnh giác với người lạ giữa sa mạc cũng không có.
Phải biết rằng trong nơi hoang vu khan hiếm này, hễ hai bên gặp nhau, ai cũng phải dò xét kỹ càng bởi chỉ cần sơ sẩy, có thể sẽ bị g.i.ế.c để cướp nước, cướp lương thực.
Thế nhưng bọn họ lại bình thản khác thường hỏi gì đáp nấy, không đề phòng, không nghi ngờ.
Không biết nên nói họ quá ngây thơ, hay là không còn trí khôn nữa. Tất cả điều đó đều quá bất thường.
Khi dừng chân nghỉ, họ lại tụ tập bàn bạc bằng cả tiếng Trung lẫn tiếng Anh, không ai buồn nói thêm câu nào với chúng tôi. Người phiên dịch ban nãy quay đầu lại nói:
“Không còn sớm nữa, chúng tôi phải tiếp tục tìm mặt trời. Các anh đi cùng đi.”
Nói xong, cả nhóm lại lầm lũi bước vào làn sương trắng đặc. Khoảnh khắc ấy, tôi đứng ngây ra.
Bề ngoài, họ trông không có vấn đề gì, nhưng trong lòng tôi cứ dấy lên một cảm giác lạnh buốt, gai người rất không ổn. Khi họ rời đi, một tờ báo cũ rơi khỏi tay ai đó, bị gió thổi lật lật trên cát.
Tôi chẳng hiểu sao lại cúi xuống nhặt lên. Ngay dòng tiêu đề lớn in đậm ở trang nhất đã khiến tôi sững sờ:
“Khai quật Đại mộ cổ quốc Cao Xương — phát hiện bức họa Phục Hy Nữ Oa!
Đoàn thám hiểm Trung – Mỹ lần đầu hợp tác, tiến vào đại mạc Cam Túc.”
Phần chữ bên dưới đã mờ, nhưng vẫn đọc được vài dòng giới thiệu về lịch sử nước Cao Xương và quá trình các nhà thám hiểm Mỹ phát hiện di tích này.
Bởi khu mộ quá đồ sộ, hai bên đã quyết định hợp tác để khai quật, tìm ra những bí ẩn thất truyền… Và ở cuối bài báo là thời gian đăng: năm 1919.
Lúc ấy, lão Giang cùng mọi người cũng đi tới. Lâm Thu Thanh khinh khỉnh cười:
“Cái gọi là hợp tác gì chứ, rõ là bọn Tây nhân danh khảo cổ để trộm báu vật của nước mình thôi.”
Nhưng tôi thì lại chú ý đến điều khác. Bây giờ đã là năm 1934, vậy tại sao họ lại mang theo một tờ báo cách đây mười mấy năm?
Chẳng lẽ nó có ý nghĩa đặc biệt nào đó với họ?
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
Tôi đưa tờ báo cho lão Giang. Ông xem lướt qua, sắc mặt dần trầm xuống, rồi lạnh lẽo nói từng chữ:
“Bám theo họ. Nhưng phải giữ khoảng cách an toàn.”
Ban đầu ông định giữ cách năm mét, nhưng vì sương dày, đi xa quá dễ lạc mất, nên cuối cùng giảm xuống còn ba mét. Cứ thế, chúng tôi theo chân họ tiến lên cho đến khi t.a.i n.ạ.n xảy ra.
Một người trong đội khảo cổ kia bỗng rơi vào bãi cát lún. Những người khác vội vàng chìa tay cứu, nhưng dù cố thế nào cũng không kéo nổi.
Người xấu số gào lên điên cuồng: “Cứu tôi! Cứu tôi với!”
Lâm Thu Thanh định lao tới, nhưng bị lão Giang giữ lại: “Đừng manh động. Để ta.”
Thân ảnh ông lao đi như tia chớp, sượt ngang qua vùng cát lún, chộp lấy cánh tay của người kia kéo được nửa người lên khỏi mặt cát. Nhưng ngay khi ai nấy tưởng đã an toàn, lão Giang lại buông tay.
Cả người ông ngã vật xuống cạnh đó, làm ra vẻ kiệt sức.
Người kia lập tức chìm trở lại, bị dòng cát cuốn mạnh như một cơn xoáy. Tiếng kêu cứu yếu dần, rồi biến mất.
Cát chôn kín miệng, mũi, tai… Cuối cùng, chỉ còn lại một bàn tay vẫy vùng trong tuyệt vọng — hình ảnh khiến tôi bất giác rùng mình nghĩ đến câu nói:
“Lên trời không lối, xuống đất không đường.”
Cảnh tượng ấy khiến nhóm khảo cổ náo loạn.
Họ chia làm hai phe một bên đổ lỗi cho người dẫn đường, bên kia mắng lại vì đã đi sai hướng để tìm báu vật.
Tiếng cãi vã vang vọng trong sương, chỉ có gã hướng đạo người Tây Bắc là đứng giữa, lúng túng níu người này, rồi lại kéo người kia, chẳng biết phải làm gì ngoài vò đầu bứt tai.
Tôi nhìn gã ấy, bỗng thấy quen quen. Dường như… tôi đã gặp ở đâu đó rồi.
Nhưng nhớ mãi cũng không ra — có lẽ chỉ là vì người vùng Tây Bắc ai cũng đeo một chiếc khuyên vàng bên tai chăng?
Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha. Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️
Dù vậy, trong lòng tôi lại dấy lên một nghi ngờ lớn hơn, chỉ đợi lão Giang trở lại mới có thể xác nhận.
Điều lạ là, không ai trong nhóm khảo cổ trách mắng lão Giang vì đã buông tay. Họ cư xử như thể ông không hề tồn tại, cứ thế tranh cãi ầm ĩ trước mặt chúng tôi một cách ngu ngốc, vô cảm đến đáng sợ.
Lão Giang quay lại, mọi người trong nhóm tôi đều tỏ vẻ tiếc thương: “Đáng tiếc quá… cũng không phải lỗi của anh đâu, lão Giang.”
Nhưng tôi nhận ra nét mặt ông hoàn toàn không có vẻ buồn. Tôi liền hỏi thẳng: “Thật sự là sư phụ không cứu nổi anh ta sao?”
Cả bọn sững người, tưởng tôi bị điên, ai đời lại dám chất vấn sư phụ trước mặt mọi người.
Song điều khiến họ sốc hơn cả, chính là câu trả lời của lão Giang: “Cứu được. Nhưng ta cố ý buông tay.”
Không khí đông cứng lại. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía ông. Lâm Thu Thanh trợn tròn mắt, lắp bắp:
“Vì… vì sao chứ?”
Còn tôi thì cảm nhận được rõ ràng hình tượng “Hắc Đao Kỳ Lân” oai hùng trong lòng họ, đang sụp đổ hoàn toàn.
Nhưng lời tiếp theo của lão Giang khiến tất cả chúng tôi như rơi vào hầm băng: “Tay hắn lạnh ngắt. Khi ta cố kéo lên cố ý nắm cổ tay hắn, phát hiện cũng lạnh, mà không hề có mạch đập…”
Cổ tay là vị trí mà y học cổ truyền dùng để bắt mạch chẩn bệnh —chỉ cần một thầy t.h.u.ố.c có kinh nghiệm, sờ qua là biết tạng phủ có vấn đề ở đâu.
Mà lão Giang không bắt được mạch, nghĩa là —người kia vốn dĩ đã không còn tim đập!
Tôi trừng lớn mắt: “Ý ông là… trước khi bị cát nhấn chìm, hắn đã c.h.ế.t rồi?”
Nhưng rõ ràng lúc ấy hắn còn kêu cứu, còn vùng vẫy cơ mà? Rốt cuộc là chuyện gì đang diễn ra?
Khi tôi còn đang rối bời, lão Giang lại nói một câu khiến tim tôi lạnh buốt: “Không, ta nghi ngờ cả đội thám hiểm phía trước… không có ai là người sống.”
Câu nói vừa dứt, ai nấy đều hít mạnh một hơi lạnh. Đội thám hiểm ấy rõ ràng có thể nói, có thể đi, thậm chí còn cãi nhau ầm ĩ — nhìn thế nào cũng không giống người c.h.ế.t!
Chẳng lẽ… họ là ma? Hay là bị thứ gì đó nhập xác?
Trên đường đi tiếp, tôi không dám lơ là, chăm chú quan sát đám người phía trước. Theo dân gian, ma đi khác người bước bằng mũi chân, và dưới ánh mặt trời thì không có bóng.
Nhưng tôi thấy họ chỉ hơi cứng nhắc trong dáng đi, chứ tuyệt không có ai nhón chân cả. Mà khi ánh nắng mỏng manh chiếu qua lớp sương dày, bóng của họ vẫn hiện rõ trên cát.
Rõ ràng không giống ma, nhưng lão Giang cũng không phải kẻ thích nói đùa. Tôi đem phát hiện nói với ông, lão Giang chỉ đáp gọn: “Tùy cơ ứng biến thôi…”
Trời dần sập tối. Đám người phía trước bắt đầu dựng trại nghỉ. Gã phiên dịch từng chào hỏi chúng tôi còn “tốt bụng” cho mượn một chiếc lều.
Tôi vội cảm ơn, hắn chẳng nói gì, chỉ quay lưng bỏ đi. Nhưng khi mở chiếc lều ra, tôi suýt nôn.
Một mùi ẩm mốc trộn lẫn với mùi chua như táo thối phả vào mặt. Tôi và lão Giang đều nhăn nhó, đành để Hạ Lan Tuyết và Ngân Linh tạm vào trong lau rửa, dù miễn cưỡng lắm.
Tôi ngồi bệt xuống cát, thở dài mệt mỏi. Trời đã tối mà sương vẫn không tan, chẳng biết ngày mai còn có thể ra khỏi nơi quỷ quái này không. Lúc ấy, tôi thấy Ban Ban vẫn ngồi bất động, ánh mắt dán chặt vào đám thám hiểm phía trước, trong mắt ánh lên một tia lạnh lẽo khác thường.
Tôi hỏi: “Có chuyện gì sao?”
Ban Ban không nói, chỉ cúi xuống, dùng tay viết một chữ trên cát.Tôi cúi nhìn, tim như bị bóp chặt. Chữ ấy là “ C.h.ế.t”