Khai Phá Cổ Mộ

Chương 115: Gió xuân không vượt qua Ngọc Môn Quan.



 

Lúc đó tôi mới nhận ra, thay vì nói đám xác khô này đang canh giữ Thành Ma Quỷ, đúng hơn là lưng chúng quay về hướng Ngọc Môn Quan chính là đất đai bát ngát của ta!

 

Giáo sư Tưởng Vạn Lý cũng trông rất phức tạp rồi nói: “Thời Đường có một nhà thơ tên Vương Chi Hoán từng đến biên ải, chính là nơi Ngọc Môn Quan ngày nay. Ông nhìn thấy nỗi cô liêu của đại mạc, nghĩ tới các chiến sĩ nhà Hán trấn giữ biên ải, rồi một câu thơ để đời ra đời: ‘Khương địch hà tu oán Dương liễu, xuân phong bất độ Ngọc Môn quan.’”

 

“Nhưng thật không ngờ, qua mấy chục năm dạy học, ta lại hiểu sai ý ông. Hóa ra ‘x Gió Xuân’ trong thơ không phải là gió xuân bình thường, mà chính là loại côn trùng đó…”

 

“Và thứ ngăn không cho ‘Gió xuân ’ vượt qua Ngọc Môn Quan, chính là những tướng sĩ vạn năm của ta!”

 

Khi ‘xuân phong’ xâm nhập, họ đốt lên ngọn khói báo, liều mạng bảo vệ thành trì. Dù hy sinh, dù đầu m.á.u tan xương, dù chôn thân nơi đất khách, họ vẫn giữ bảo vệ muôn dân, ngày qua ngày, mùa qua mùa, năm này qua năm khác!

 

Nghe đến đây tôi ứa nước mắt, lòng trào lên bao xúc cảm mãnh liệt. Khi bầy ‘gió xuân ’ xanh rút đi, đám xác khô cũng mất đi mục tiêu, đứng im như những tượng gỗ, không nhúc nhích nữa.

 

Chúng tôi lấy can đảm nhảy xuống đồi đất. Trên mặt đất có nhiều con côn trùng bị dọa c.h.ế.t, giáo sư Tuởng Vạn Lý tiến đến lấy một con bằng nhíp, soi kỹ qua kính lúp.

 

Chút sau ông nói: “gió Xuân có vẻ là một loài bọ giáp xanh đã tuyệt chủng từ ngàn xưa, lịch sử của nó xa như bọ thiêng Ai Cập; xưa kia các pharaoh dùng nguyên lý sinh sản của bọ thiêng để canh giữ kim tự tháp. Tôi nghi ngờ xuân phong có thể do con đường Tơ lụa mở ra mà được thương nhân Trung Á vô tình đem tới vùng Tây Vực; quê hương của chúng có thể là Ai Cập cổ hoặc thậm chí La Mã cổ…”

 

Nghe Tưởng Vạn Lý nói, mọi người nhìn nhau, không dám tin thứ kinh khủng như vậy thật sự tồn tại.

 

Ông hít sâu rồi nói tiếp: “Dù nguồn gốc thế nào, khi tới Tây Vực, khí hậu sa mạc khiến loài này biến dị, dần dần thành thứ mà ta thấy ‘Gió xuân ’ bây giờ. Nơi nào chúng đi qua thì cỏ không mọc, chim thú c.h.ế.t sạch; chúng hút cạn nước trong mọi sinh vật, như con lạc đà c.h.ế.t vừa rồi.”

 

Tôi chợt nghĩ đến đám xác khô ở Thành Ma Quỷ có phải bọn họ cũng bị xuân phong hút khô? Rồi bởi một duyên kỳ ngộ nào đó, họ trở thành những xác khô không thể giải thích bằng khoa học. Xuân phong hút nước uống máu, còn xác khô chẳng còn nước để hút, nên mất điểm yếu duy nhất là sợ nước, chúng chỉ biết tấn công tiến lên. Họ c.h.ế.t bởi gió xuân nhưng lại trở thành thiên địch của xuân phong.

 

Phải chăng đó chính là vòng nhân quả: nhân vì nhân, quả vì quả?

 

Lão Giang trầm giọng: “Cũng có thể là một cao nhân nào đó đã chế tạo họ thành xác bất tử chôn ở đây, để hoàn thành nguyện vọng chưa xong; hoặc họ khi c.h.ế.t vẫn day dứt quê hương, thề dù chỉ còn một người cũng giữ Ngọc Môn Quan.”

 

“Chí khí ấy khiến họ thành ra như bây giờ: không già không c.h.ế.t.”

 

Nghe những lời này, chúng tôi bỗng trào dâng nỗi xúc động —mấy xác khô kỳ quái kia sao chợt không còn quá đáng sợ nữa. Khi sống họ là ai? Là chồng của ai, là trẻ của nhà nào?

 

Ngân Linh sụt mũi: “Vậy họ sẽ phải canh Thành Ma Quỷ mãi mãi sao? Thật tội nghiệp.”

 

Gió Xuân không thể vượt qua, vì hàng năm vào ngày 18/2 vẫn có những người chiến sĩ đứng đó đỡ đạn thay cả thiên hạ.

 

Tôi định an ủi Ngân Linh thì chưa kịp mở lời đã nuốt lại, chau mày chỉ tay run run về phía trước: “Các người… nhìn kìa!”

 

Hàng trăm xác khô ngoài thành đồng loạt “rắc rắc” quay cổ, xoay ngoặt 180 độ, cùng phát ra ánh mắt oán độc kinh người, đồng loạt dán vào chúng tôi.

 

Đầu chúng hướng về phía chúng tôi, nhưng thân mình vẫn quay về phía bầy gió Xuân đang rút lui!

 

“Trời ơi, chúng không có định đến đây chứ!” Ngân Linhhá hốc miệng, sắc mặt tái mét.

 

Mọi việc đúng như cô đoán: đàn xác khô giữ tư thế quái dị là đầu ở trước thân ở sau, cứ thế xoắn vặn tiến về phía chúng tôi, như những thân cây ô liu bị trồng ngược, trong gió cát lần từng bước tiến tới.

 

Lão Giang vỗ đùi: “Xong rồi, có lẽ chúng cũng coi chúng ta là kẻ xâm lược rồi…”

 

“Mau làm sao bây giờ?” mọi người đồng loạt nhìn về phía lão. Tôi nghiến răng, quyết đoán nói: “Lên đồi đất đã!”

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

 

Mọi người bắt đầu chạy lùi, hạ quyết tâm tìm cái đồi to nhất làm nơi ẩn náu. Nhưng đúng lúc ấy, quân sư Nhất Tiễn Mai vốn chưa hé răng từ đầu đến giờ đột nhiên rút ra cây sáo ngọc đen, ung dung đứng lên một vách đá cao ba bốn mét.

 

Gió thổi tung áo trắng hắn, sắc mặt Nhất Tiễn Mai trông chẳng hề sợ xác khô: “Muốn tháo nút, phải người thắt nút tháo — có lẽ mấy ngàn năm trước, Vương Chi Hoán đã dạy chúng ta cách an ủi những xác khô rồi…”

 

Rồi hắn thổi lên một khúc nhạc u u buồn bã vô tận, âm điệu vừa như điệu “Lương Châu” thời Hán, lại giống giai điệu bắc biên “Bẻ liễu”.

 

Tiếng sáo ngân nga, như oán như mộng, như khóc như than. Âm vang văng vẳng không dứt.

 

Trong tiếng sáo tôi như thấy một cảnh: trên bức tường lạnh, binh lính mặc áo sắt run vì gió, dùng bàn tay đóng băng viết thư nhà lên mảnh gỗ. Đêm giá buốt nhưng trên mặt họ vẫn có nụ cười ấm áp.

 

Bên kia biên ải là mẹ tóc bạc, là người vợ son trẻ ngồi trên bậu cửa, ngày ngày chờ chồng con về. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, xuân qua rồi hạ, hạ qua rồi thu, thu hết lại đến đông. Nhưng những người con trai nhà Hán kia vĩnh viễn ở lại Đôn Hoàng, vì giữ mà không thể trở về…

 

Chỉ còn tiếng sáo vi vu ngoài ải, nhắc người qua đường: đã từng có những người dũng cảm canh giữ Hoa Hạ, canh giữ con đường Tơ Lụa.

 

Khương địch hà tu oán Dương liễu, xuân phong bất độ Ngọc Môn quan.

 

Trong tiếng sáo, chúng tôi thấy trong mắt những xác khô dần dần mất đi oán độc, từng giọt chất lỏng đỏ không thể gọi là nước mắt rơi ra từ hốc mắt trống rỗng của chúng.

 

Rồi chúng đứng im, bước chậm, lần lượt quay về vị trí cũ, lại chìm vào lớp cát mênh mông.

 

Tôi không biết họ còn phải canh giữ trong gió cát bao nhiêu năm nữa; chỉ biết rằng đến ngày 18 tháng 2 năm sau, họ sẽ lại trỗi dậy! Năm này sang năm khác, canh giữ muôn đời!

 

Cảnh này khiến tôi nhớ đến lời thệ của Địa Tạng Vương Bồ Tát: “Địa ngục chưa trống, thề không thành Phật.” Những người bình thường kia cũng thế Gió xuân chưa hết, khí tiết lính vẫn còn! Khi nào gió xuân biến mất, họ mới có thể siêu thoát, về với đất, luân hồi làm người, lại được hưởng tình thân, tình bạn, tình yêu.

 

Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️

Cả bọn chúng tôi vì kiệt sức nằm vật lên đồi, ngủ mất nửa ngày mới lấy lại sức. Đến lúc trời nắng gay gắt, chúng tôi dắt lạc đà rời Thành. Ma Quỷ mãi mãi vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại, chẳng ai dám nhìn lâu.

 

Cả đoàn im lặng bước đi, ai nấy buồn bã.

 

Lúc đó Điêu gia gọi tôi lại. Vì con lạc đà của Nguyệt Nguyệt bị ăn hết, mà cô ấy không thể đi bộ, Điêu gia bảo tôi cùng cô ấy cưỡi một con lạc đà để tiện bảo vệ. Ý đó thật không hay, tôi lập tức từ chối.

 

Chưa nói đến việc tôi chẳng ưa Nguyệt Nguyệt chút nào, chỉ riêng nghĩ đến việc lại phải chứng kiến một lần nữa bầy côn trùng che kín trời đã đủ làm tôi kinh sợ.

 

Điêu gia mỉm cười, quay ngón tay cái phải, ý nhắc rằng tôi đừng quên: trước kia tôi đã lấy vài bảo vật, nên an toàn của Thượng Quan Lãm Nguyệt nằm ở tôi.

 

Tôi giả bộ ngớ ngẩn đáp lại: “Thế bố con ngồi với nhau có phải hợp không? Cha con đồng tâm, lợi hại gấp bội.”

 

Điêu gia tức tới c.h.ử.i rủa, chỉ tay vào mũi tôi: “Mày… mày… mày.”

 

Đại Vũ, Tiểu Vũ xung phong cùng Nguyệt Nguyệt cưỡi chung, nhưng bị cô từ chối. Cô quay sang Ngân Linh , Ngân Linh hồn nhiên hỏi: “Cô muốn cùng tôi vừa đi vừa kêu ‘ái ôi ái ôi’ mãi à?”

 

Biết là cái địu tre của Ngân Linh nặng kinh khủng, thêm người lên nữa lạc đà sẽ đuối sức. Cuối cùng Nguyệt Nguyệt đành ngồi chung với Hạ Lan Tuyết.

 

Lúc trở lại trạm hiệu pháo, tôi đề nghị chờ chút; được lão Giang đồng ý, tôi chôn xác tên thám hiểm gia gọi là George sơ sài và dựng một bia mộ:

 

‘Tưởng niệm, người đã truy tìm Gió Xuân .’

 

Dù sao ông ta cũng là người báo hiệu giúp chúng tôi tránh được t.h.ả.m họa sa mạc. Đó là sự tôn kính mà tôi, Lý Kinh Lam phải dành cho ông.