Mấy hôm nay trời lạnh hơn hẳn. Ngoài rừng nhiều loài cây lá rụng còn trơ cành khẳng khiu. Nước suối có cảm giác lạnh buốt. Đám chim bói cá cũng ít thấy hơn. Trời nắng giữa trưa như bị mất nóng chỉ còn cảm giác ấm. Lũ lạc Tắc- kè sau khi đốt hang nửa tháng thì hết cả núi. Bây giờ lũ người ấy quay lại cuộc sống cũ bữa no bữa đói. Vì có cá của Tuấn Minh nên cuộc sống bớt lo. Về phía Tuấn Minh. Mơ bảo sắp tuyết rơi nên lo gom cái ăn để trên tum. Cá bẫy bởi chúm cũng ít đi còn một phần ba. Mà đáng lo là chỉ sau mùa đông, mọi đoạn suối đều đã đặt chúm một lần, nghĩ rộng là đã bẫy hết cá to. Phải đợi 6 tháng để cá nhỏ lớn kịp. Muốn có cá to phải sang suối lạc khác.
Cả Tròn dẫn đội sức 4 người đi săn qua cầu khỉ thấy mùi thơm nhưng ghét không thèm qua cầu. Tuy nhiên mấy người trồng khoai mời nhiệt tình. Cộng thêm ba hôm nay chưa ăn thịt nên bước qua cầu. Bữa trưa khiến chàng bất ngờ. Ô chỗ đây ăn ngon thế sao. Cái ăn chất đầy gác. Nhà đây ở ấm và kín gió. 4 sức kia cũng nghĩ như thế. Ước gì được ở đây. Tuấn Minh đoán họ nghĩ gì. Chàng chủ động mời ở đây cho vui. Cả Tròn không nói gì, chàng ăn xong rồi bảo đội sức đi săn. 3 sức kia thì lại muốn. Họ gọi vợ con đến ở. Bây giờ, hơn hai phần ba lũ lạc ở trong hai gian nhà. Người đông nên Tuần Minh nhẩm tính cần dựng thêm ngay gian nhà thứ ba. Tuấn Minh nộp Mo Ngà mỗi hai ngày năm cá to thay vì ba như trước. Đây là phí thuê người. Không nộp là không xong.
Buổi sáng. Trời lạnh. Nhóm người ai làm việc người ấy. Các sức tiếp tục dựng gian nhà thứ ba. Cô Cật gõ vào ống tre cạnh chuồng gà. Mấy gà con nghe tiếng chạy lại. Cô ném nắm tép và khoai băm nát. Chúng xúm lại tranh nhau mổ. Chúng bắt đầu trổ mã không còn “cộc” nữa. Cô Sim mang nồi cám ra chuồng lợn. 11 lợn con biết được ăn nên éc éc. Cám vừa đổ vào máng, chúng ăn sộc kêu pặp pặp như máy. Mấy ngày đầu chưa quen nên húc phá chuồng. Giờ sống nhốt nhưng bù lại không lo kiếm ăn. Tại bãi đất đỉnh đồi Tuấn Minh đang làm gì đó. Một… hai… ba… Mười bốn… Mười bốn lần chống đẩy hai tay. Hai cánh tay chàng mỏi mất cảm giác. Mặt đỏ như gà. Tuấn Minh nhớ ngày xưa học Võ cổ truyền ở Nhà văn hóa xã trong những ngày nghỉ hè năm lớp mười và mười một. Mỗi buổi đầu giờ là bài khởi động, ai cũng chống đẩy năm chục, rồi chạy mười vòng quanh sân. Sau buổi học nghe thầy kể chuyện đời võ rất vui. Võ xuất phát và đúc rút từ nhu cầu con người chống thú dữ và chiến tranh. Ví dụ: từ thực tế đánh cọp mà rút ra bài quyền “Lão hổ thượng sơn” ( Cọp già săn mồi), từ thực tế nhìn kỹ gà trống chọi cụ Nguyễn Lữ sáng tác bài “Hùng kê quyền”, từ thực tế dùng đại đao đánh nhau trên lưng ngựa mà rút ra bài “Ô long hí nguyệt". Với Tuấn Minh, chàng đang đứng trước sự thật trần trụi: Nếu ngày nào đó bị Cả Tròn đánh mà không chống được thì sẽ mất tất cả, Mơ, nhà, cuộc sống bình yên. Cả Tròn có vì món ngon, nộp thịt cá nhiều mà buông tha mình không. Không. Phải giữ tất cả bằng chân tay. Và bạo lực là câu trả lời. Nhìn rộng ra. Con người đối xử với nhau không công bằng. Công bằng dựa trên thực lực. Bạo lực. Đánh nhau. Còn con người, còn xung đột lợi ích. Còn đánh nhau. Đó là sự thật. Chửi nhiều chửi to không chết địch. Lý lẽ hay thua nắm đấm. Nếu không chấp nhận sự thật, mời xuống đất nói với giun. Truyện Cả Tròn thách Tuấn Minh. Chàng không sợ. Chàng sẽ chọn thi những trò chắc thắng như đố toán, lý, sinh. Cả Tròn thua mà tức vì không được đánh. Đánh là cách trực tiếp khuất phục đàn ông. Tuấn Minh không tránh né. Chàng cần chuẩn bị. Thế là luyện võ chờ ngày Cả Tròn thách đấu. Sau bài chống đẩy là chạy. Tuấn Minh chạy vòng quanh đồi. Vòng tròn đường kính 50 m thì quãng đường khoảng 155 m. Chạy 5 vòng thì thở bằng lỗ tai. Tuấn Minh bắt đầu nhớ lại bài quyền Thiền sư rồi luyện lại. Dù đã hơn một năm trôi qua nhưng vẫn nhớ đủ. Chú ý: Tác giả học Võ cổ truyền Bình Định năm 16 tuổi trong đó có bài quyền “Thiền sư”. Sau này tìm hiểu rộng biết nó phổ biến trong các làng võ Bình Định. Cả bài quyền và thảo ( hiểu đơn giản là thơ diễn ý) có nhiều dị bản. Dưới đây là bài thảo mà tôi được học. Âm Hán Việt kèm dịch.
Liệt địa đồ thành- Chiếm đất phá thành. Kim Ngưu chí giác- Trâu vường hất sừng. Thường diệp ẩn thân- Lá nhỏ dấu thân. Lão Tổ dương tân- Cụ già đón bạn. Thiền sư tống khách- Ông sư tiễn khách. Tiên ông tọa thạch- Ông tiên ngồi đá. Đồng Tử đăng sơn- Cậu bé lên núi. Hạng đả song quyền- Tay đánh yết hầu. Tấn khai lưỡng thủ- Hai tay mở lối. Trung thiên lập trụ- Dựng cột giữa trời. Hạ địa tầm châu- Cúi xuống mò châu. Đảo thế Hắc hầu- Khỉ đen phản đòn. Tùy cơ Bạch hổ- Cọp trắng rình mồi. Tung hoành ngũ lộ- Dọc ngang năm ngả. Tấn bộ tam quan- Tiến lên phá ải. Bạch hạc tầm giang- Hạc trắng tìm sông. Kim kê độc lập- Gà vường một chân. Bái Tổ, lập như tiền- Bái tổ, đứng như trước.
Tuấn Minh đi bài quyền xong tiếp tục luyện các bài bổ trợ: đứng trung bình tấn (đứng ba vuông), ngồi dạng chân (ai học võ sẽ biết bài này rất rất khó, thao luyện đau dã man con ngan), bộ tay 16 chiêu ( liên hoàn thập lục thủ), đá nhiều kiểu: đạp thẳng- vòng ngang- quét dưới- nhảy bay- kẹp cổ- cao ( qua đầu)- quay trước ( xoay người rồi đá)- nguyệt minh ( gót chân vẽ nửa vòng tròn). Về vũ khí có gậy ( cao ngang tai) với bài Roi tứ trụ. Đây là những bài học “nhập môn" cho 3 tháng. Sau ba tháng sẽ thi lên đai vàng: chống đẩy 50 cái và bài quyền Thiền sư. Học tiếp 6 tháng các bài nâng cao: thêm các bài quyền như Lão hổ thượng sơn, Lão mai quyền, Bát quái quyền với vũ khí như đao, đôi gậy ngắn, gươm, roi ( Roi Thái Sơn); đánh người gỗ, né lao; thực chiến mỗi tháng một lần. Bài thi lên đai xanh: đập vỡ 5 viên ngói hoặc chống đẩy 200 cái và một bài vũ khí.
Học tiếp 1 năm các bài nâng cao: Hùng kê quyền, đả công ( dùng gậy ngắn tự đánh vào người), Ô long hí nguyệt, tâm lý chiến, thực chiến mỗi tháng một lần. Bài thi lên đai đỏ: đánh thắng một đối thủ ngang cấp ( thường là thuộc phái khác như Vo vi nam, Karate, Taekwondo ) ( thua trận thì năm sau thi lại) và một bài quyền ( mang tính hình thức).
Không ai giỏi nhờ luyện quyền. Các bài quyền chỉ là gợi ý: trong tình huống đó các thầy ( ai cũng thông minh) đã xử lý tình huống thế nào. Trong quá trình luyện quyền suy ngẫm rồi đánh tập rồi hình thành phản ứng vô thức trong đầu. Người không biết võ động tác đơn giản. Có thể nhìn ba điểm là vai - eo - gót chân để đoán đòn. Ví dụ, họ thường bắt đầu bằng đòn tay đấm vòng ngang hoặc chân đá ngang thấp. Người luyện võ nhiều thì ngược lại. Không đoán được. Đòn đánh đơn giản nhưng nhanh và hiểm. Ví dụ: đòn tay sẽ là đấm thẳng rồi rút ngay về, họ ít khi dùng chân đá vì đánh gần đòn chân dễ bị phá.
Nghĩ miên man một hồi Tuấn Minh nhớ về những cuốn sách dạy võ “chân truyền" “gia truyền" bày ở cửa hàng sách. Đây chính là tinh túy của cha ông để lại. Rất tiếc là chúng sống ở thời “luyện võ mười năm không bằng súng hoa cải một phát”. Chúng đành nằm im cho bụi thời gian phủ lên.
Ngày đầu luyện võ vậy là xong. Những ngày sau Tuấn Minh tăng thao luyện chủ yếu để khỏe hơn như đấm đá thân chuối. Sim thấy anh rể không ngại trời rét mà lên đồi “đấm đá lạ lắm". Tuấn Minh bảo học cái này giết thú dễ hơn và kiếm vợ dễ hơn. Sim thích lắm thế là theo học. Thế là mỗi ngày hai anh em luyện võ chung. Tuấn Minh và Sim tập đối kháng. Như thế này tốt hơn là đánh “chay” hoặc đánh người bóng ( tưởng tượng trong đầu).