Tụng Chi nói, khi di thể phế Thái tử bị khiêng ra khỏi Xuân Phong Lâu, quần áo tả tơi, mặt không được che, cứ thế phơi bày giữa phố khiến bách tính chỉ trỏ bàn tán. Sau gặp lúc Trừng Vương cùng mỹ nhân lên lầu, vì tình huynh đệ mà đặc ban cho tấm vải trắng để quấn xác.
Ta không dám nghe nữa, thân thể run lẩy bẩy, mờ mịt tuyệt vọng mà chỉ biết truy vấn:
“Huynh ấy… giờ ở đâu?”
“Bãi tha ma… bên ngoại thành”
Bãi tha ma.
Ba chữ ấy như sấm sét giáng xuống, đánh ta ngã sập xuống đất. Oán hận khôn cùng bùng nổ từ tận đáy lòng, máu toàn thân sôi sục cuồng loạn, tưởng chừng muốn nổ tung. Đau đớn và tuyệt vọng phủ trời che đất nuốt chửng lấy ta, ta gào thét đến vỡ lòng ngực, trong mũi ngập tràn mùi rỉ sắt.
13.
Bãi tha ma, lũ chó hoang tha đi nửa đoạn ngón tay, chiếc nhẫn bạch ngọc ban chỉ rơi lăn lóc giữa bùn đất. Giữa đống xác thối rữa, ta moi được thân thể bị tàn phá của hắn. Cả đời hắn ưa sạch ghét nhơ bẩn, ghét nhất là ô uế vấy thân, thế mà nay lại nằm giữa chốn hôi thối ngập trời, giòi bọ đầy đất. Quạ lạnh mổ mắt, chó hoang gặm da. Trong bàn tay trái máu thịt nát nhừ vẫn gắng nắm chặt chiếc chuông bạc chạm khắc hoa, là lễ vật ta tặng hắn đêm Thượng Nguyên năm trước.
Khi người ta đau đến cực điểm thì chẳng còn khóc nổi, chuyện này ta đã biết từ năm mười tuổi. Máu từ kẽ tay hắn trào ra, men theo ngón tay mà rỏ xuống, từng giọt, từng giọt rơi trên gương mặt tuấn mỹ như ngọc của hắn. Ta hoảng loạn vươn tay lau đi. Hắn vốn không thích thế, hắn không thích những thứ dơ bẩn. Nhưng càng lau, huyết sắc càng nồng, nước mắt hoà lẫn cùng máu, càng lau càng đậm, không sao dừng lại được.
Ký ức như đèn kéo quân xoay vần trong đầu óc.
"Tiểu Thất Tạ gia, ta đưa muội về nhà……"
"Tiểu Thất chớ khóc, từ nay ta chính là a huynh của muội."
"Tiểu Thất của chúng ta không phải đứa nhỏ không ai cần, trong người chảy huyết mạch anh hùng của Đại Kỳ ta."
"Tiểu Thất, ta làm diều giấy bươm bướm cho muội, đợi xuân đến ta đưa muội đi đạp thanh có được chăng"
"Tiểu Thất, đợi ngày nào đó muội muốn mở miệng, hãy gọi một tiếng ca ca, được không?"
"Tiểu Thất, từ nay ta là tin thắng trận của muội, muội là lối về của ta……"
"Tiểu Thất, phong cảnh tái ngoại tuyệt đẹp, đợi ta xong việc sẽ ngắm tuyết, đua ngựa cùng muội, có được không?"
……
Năm ấy, ta vừa mười một.
Mười vạn kỵ lang Bắc Địch áp cảnh, phá liền ba quan. Triều đình liên tiếp truyền mười hai đạo kim phù, lệnh cho Ung Châu tử thủ, song chẳng có một binh tốt nào đến cứu viện.
Trong thành đã cạn kiệt lương thực bốn mươi bảy ngày, chiến mã cũng đã ăn hết, vỏ cây cạo sạch, đến cả dây cung cũng đun sôi làm thức ăn. Khi kỳ binh cờ đen rốt cuộc bay đến đầu thành, cả Ung Châu đã lặng lẽ như cổ mộ. Biển máu núi xương, toàn quân thương tướng còn mười bảy người, ngoài ra chỉ có ta trong hầm đất, mình đầy ghẻ lở.
Ngày mơ mơ hồ hồ được người bế ra, tuyết đã ngừng rơi. Ánh dương như lưỡi dao cùn xẻ phanh đôi mắt mù lở loét của ta, tầm mắt lập tức khóa chặt vào tường cao: nơi ấy treo đầu phụ thân và mấy vị huynh trưởng, hốc mắt rỗng không, vẫn nhìn thẳng về phương Bắc.
Ngày mai thành có sụp, chớ thu xác ta, để xương làm gạch đá, để hồn giữ đất Ung Châu.
Thanh âm phụ thân gầm vang dường như vẫn còn vẳng mãi bên tai. Hôm ấy, Tam ca vội vàng nhét ta vào hầm ngầm. Khóe môi huynh vẫn mang nụ cười ngông nghênh như mọi khi, nhưng trong mắt lại chất đầy quyết tuyệt. Huynh ấy nói:
“Tiểu Thất, phải sống cho thật tốt. Mang theo nỗi niềm của tất cả mọi người, sống thay bọn huynh.”
Thành trì đã hóa tro tàn, núi thây máu chảy thành sông. Ta nhìn thấy ngay dưới cổng thành một thân thể cắm đầy tên, cùng một lá đại kỳ, cả người và cờ đều khụy xuống, đầu gục, thân vẫn quỳ thẳng, bất động như núi. Xương sống cong oằn như một cây cung cứng đã gãy mà vẫn trơ trọi chống đỡ đến cùng.
Trước người ấy rõ ràng có một hàng chữ máu với nét chữ ngang tàng kiêu ngạo, rõ ràng là bút tích của Tứ ca…
Tướng sĩ còn sống kể lại, Tứ ca cùng Hổ Bí doanh lấy thân chặn cửa, chống đỡ hơn nửa khắc mới đủ thời gian cho già trẻ phụ nữ trong thành thoát bằng cửa Tây.
Trên tường Bắc, vài con quạ lạnh lùng chao liệng. Dưới chân tường, những thân người nằm đó đã chẳng còn thấy rõ dung nhan, chỉ còn chuỗi lôi hỏa đạn bên hông bị lửa nung chảy thành sắc lưu ly… đó chính là bảo vật mà năm xưa Lục ca lén đưa ta trốn trong kho quân giới chơi thử vào tết thượng nguyên, bị phụ thân phát hiện rồi phạt quỳ, cuối cùng giấu đi không nỡ giao nạp.
Ta muốn gào thét nhưng trong cổ chỉ bật ra thứ âm thanh khô khốc như giấy ráp cọ vào nhau. Một tấm hồ cừu trắng còn vương hơi ấm bất chợt quấn lấy ta, bàn tay đầy vết chai sần che kín mắt ta, trong giây khắc ấy, ta cảm nhận được dòng nóng rát nhỏ giọt xuống gáy. Người ấy nói:
“Tiểu Thất, ta đưa ngươi về nhà.”
Nhà ư?
Ở Ung Châu, mùa xuân này sẽ chẳng còn ai hái lê mang đi ủ rượu; cũng không còn người nâng lên đặt xuống tảng đá Diễn Võ Trươngf; trong thư phòng của phụ thân, quyển Lục Quân Kính còn mở dang dở ở Hỏa Công thiên, mực chữ đã bị tuyết hòa loang lổ thành vệt đen như hoa nở; các ca ca của ta cũng sẽ chẳng còn ai kế tiếp, lần lượt túc trực bên giường trêu chọc không cho ta ngủ trong đêm giao thừa.
Ta sinh ra tại Ung Châu, lớn lên cũng ở Ung Châu. Phụ thân cùng huynh trưởng của ta chính là chiến thần một phương của đất Bắc. Mà nay… nơi nào còn có thể gọi là “nhà” của ta đây?
Từ Ung Châu đến Thịnh Kinh, băng rừng vượt núi ngàn dặm. Vị thiếu tướng quân khoác giáp bạc ấy ngày đêm chăm sóc ta, dẫn quân mới vừa dẹp yên loạn phương Nam đã tức tốc tiến về phía Bắc cứu viện. Khi ấy ta tuổi nhỏ nào hiểu được vì sao một quốc gia binh cường mã thịnh lại phải chọn đường vòng xa xôi vạn dặm để cứu viện.
Ngồi trên lưng ngựa cao, ta co mình trước ngực hắn, ánh mắt suốt ngày chỉ dõi theo quan tài sơn đen chứa phụ thân và những huynh trưởng của ta phía trước, như con rối biết thở, một lời cũng chẳng thể thốt ra.
Chuông tang Hoàng thành ngân vang suốt ba ngày, thiên hạ đều bi ai.
Mười tuổi, rốt cuộc ta được đưa trở về phủ Trấn Bắc Hầu… nơi ta chưa từng quay về kể từ ngày phụ thân xuất chinh. Bảy ngọn trường minh đăng chiếu rọi linh đường trắng xóa. Ta quỳ dưới hương khói mờ mịt, nhìn vườn trong phấp phới giấy trắng, gốc lê nơi gó tường chẳng rõ đã héo khô từ mùa nào kể từ khi phụ thân ta đi về phía Bắc.
Nhìn bảy cỗ quan tài lạnh lẽo xếp hàng, rốt cuộc ta cũng bật lên tiếng khóc xé gan, là tiếng kêu đai đớn bi thương đầu tiên suốt mấy tháng trời. Người đời đều nói: Tạ gia trên dưới trung liệt. Nhưng mười tuổi ta nhai đi nhai lại mấy chữ ấy, chỉ thấy căm hận đến tận xương tủy.
Đêm ấy, trong sân giấy tiền bay trắng như tuyết. Có người đạp tro hương mà đến, giày gấm nguyệt sắc dừng lại trước chậu than hừng hực đỏ. Ngẩng đầu dưới ánh trăng, ta lại thấy gương mặt quen thuộc đã theo ta suốt mấy tháng qua. Chỉ khác là lần này hắn không mặc giáp bạc. Hắn ngồi xổm xuống, ngọc bội bên hông chạm vào tang phục loà xoà nơi đầu gối ta, hình rồng khắc trên đó chỉ riêng Thái tử mới có.