Lạn Nguyệt lâu thực chất là một chiếc thuyền kiểu dáng đặc biệt, ngoài phần thân chìm dưới nước thì bên trên giống mặt bè phẳng hình chữ nhật, trên bè giả này cất toà lầu cao ba tầng, còn mở chợ đêm ở các khoảng trống thừa xung quanh lầu. Để nhấn mạnh ý nghĩa tên gọi, trên đỉnh nóc gắn một mảnh trăng khuyết lớn làm từ dạ quang châu, có thể nói khi bóng tối buông xuống cửa biển Lạn Kha thì lầu Lạn Nguyệt trở thành mĩ nhân duy nhất, của cảnh sắc và trong lòng người dân chốn này. Vào đêm rằm, Lạn Nguyệt lâu cho bắc cầu phao bằng gỗ nối từ chỗ thuyền đậu xa mép nước tới bến tạm của dân chài trên bờ cát, ai muốn ra xem không cần tự chèo thuyền nan thuyền thúng như mọi khi, đấy cũng là dịp để bọn trẻ con ùa lên thuyền tham quan mà chẳng sợ bị người lớn cấm cản. Cầu phao được dựng từ giấc chiều, có tay vịn là lưới bện thừng, mặc dù dân sông nước đều thạo bơi lội nhưng ban đêm khó nói trước, cầu được bắc rất chắc chắn cẩn thận.
Hoạt động chính trên thuyền là gì? Gồm nhà hàng, sòng bạc, hội đấu giá. Do mức sống người dân xứ Chài so với nơi khác chỉ ở tầm trung nên giá cả trên lầu cũng được điều chỉnh cho phù hợp, ấy vậy nên vẫn hay thấy lão phú hộ béo họ Do và đứa con trai đổ đốn của lão tới lui Lạn Nguyệt hằng đêm, ngoài ra mối ruột của thuyền còn có không ít tay chơi nức tiếng khác trong vùng. Hôm nay cũng rằm, chợ đêm dưới lầu huyên náo tiếng trẻ con, chúng kéo bạn hàng xóm lên thuyền chơi, coi đùa thoả thích, trăng tròn vành vạnh như nụ cười hiền từ rủ xuống đám con trẻ tuy nghèo mà vô tư, đổ bóng nơi góc tối một đứa nhóc lặng thinh đứng hóng gió. Nó cứ đứng đó, không bị ai để ý, mái tóc dài và dày tới mức như bờm của mãnh sư, rẽ ngôi giữa thừa một lọn lệch từ đây sang kia tựa chiếc lá trúc rơi ngang trên đỉnh đầu vậy, nó tên là Vương Vi, có thể tay không đuổi được gấu.
Cha mẹ của Vương Vi là hai ông bà lão sanh con mọn, lần lượt qua đời vì tuổi già, nói nào ngay Vương Vi vừa mãn tang mẹ vào mùng chín tháng ba năm ngoái trong khi giỗ cha thì ngay mùng một tháng một. Trong thôn Ất mười ba hộ dân, nhà của Vương Vi thuộc hàng nghèo nhì thì không ai nghèo nhất nhưng chắc chắn là vui vẻ nhất, chuyện bà Vương sanh con ở tuổi năm mươi lăm đúng là chuyện lạ đồn suốt xóm trên xóm dưới, từ lúc Vương Vi ra đời ngôi nhà chỉ hai vợ chồng già liền nô nức như ngày nào cũng đang đón Tết. Bẩm sinh Vương Vi giống hệt những đứa trẻ khác, cũng ốm vặt, cũng đòi ăn nhiều, lớn chút thì bộc lộ thông minh và biết nghe lời, thích làm việc nhà từ nhỏ, thích những cỗ xe hay chạy ngang dưới dốc đồi trên con đường huyết mạch của thôn. Hai lần người thân qua đời, Vương Vi đều không khóc cũng chẳng tỏ ra đau buồn, càng lúc càng lạnh lùng hơn khiến xóm giềng nghĩ rằng nó bị trầm cảm, dần dần ít nói chuyện và thường bỏ lên núi ở qua đêm, lần lần dân thôn truyền tai nhau mấy việc ấy rồi đồn thành chuyện không hay, dù Vương Vi đã là trẻ mồ côi nhưng họ càng xa cách nó.
Hôm nay là lần đầu tiên Vương Vi bước lên Lạn Nguyệt lâu, nó từng nghe đám trẻ chăn bò kể um trời rằng đây là lầu tiên có tiên nữ ngụ ở, cách đây chừng năm nó bèn từ thôn đi bộ đường cái ra bờ biển xem, chỉ thấy một căn nhà lớn màu mè xây trên bè nổi, người ra vào toàn dân thường, chẳng thấy tiên nhân nào cả! Nhưng nó cũng thắc mắc, tại sao thứ lớn như vậy có thể dập dềnh trên mặt nước mà không bị chìm? Vì vậy, nó mới xuất hiện ở đây đêm nay. Vương Vi lắng tai nghe được tiếng quay của thứ gì đó nằm gần cuối bè, có lẽ là một dạng cơ máy ngầm, trên thuyền cũng có ròng rọc nhưng tinh vi hơn loại dùng kéo gàu nước lên miệng giếng, nó còn thấy vài kiểu xe đẩy nhỏ có thể bật mở các ngăn bằng một cái gạt duy nhất, nhiều lắm, những thứ này không phải phép thuật, chỉ là máy móc tinh vi mà thôi. Nếu có gì khó lý giải căn cơ nhất thì chính là “mảnh trăng” trên đỉnh nóc mái của lầu, “mảnh trăng” ấy phát sáng không nhờ đèn, không giống loại nến chụp cốc thuỷ tinh mà gã họ Do từng khoe khoang ở quán rượu Hương Lâu của lão Ngũ, “dạ quang châu” thì càng không phải vì con lão Ngũ là thằng Ngủ bảo thứ của báu đó ban ngày cũng sáng rực chứ không chỉ ban đêm. Vương Vi ngước nhìn “mảnh trăng” lần nữa, thầm đoán là do bôi bột lân tinh vì bột lân tinh rất nhạy tối, loại bột này lại tương đối rẻ nhưng để trát kín một “mảnh trăng” như vậy thì tốn không ít, so với đồ thật thì đồ giả đúng là kém hơn vạn phần, nó chuyển ánh nhìn sang vầng trăng lơ lửng tầng cao, thấy mây mỏng bay ngang tựa tấm áo the trôi trên sông giặt đồ, văng vẳng tiếng cô gái nào đó la í ới vói theo…
Bịch!
Thằng vừa cắm đầu va vào nó ngã dúi dụi, trán cụng bè nghe cái “cộp”, thân nó như tấm sắt chắn tên khiến người ta đau kêu ôi ối, thằng tự gây tai nạn ngẩng đầu lên liền trợn mắt vì tưởng gặp ma nhưng hoá ra lại không phải kẻ lạ, đó là Tân Cố con nhà ông chủ Tân chuyên chở gạo cho vùng Chài.
“Vi? Là mày… Sao mày cũng ở đây!”
Tân Cố lồm cồm hiên ngang đứng dậy, vội vã chỉnh lại tóc tai, vuốt mặt mũi, ban đêm mặc áo màu vàng quần màu đỏ, làng trên xóm dưới đùa thành câu: mặc đồ chìm không mang họ Tân, mặc đồ mới không mang họ Nhân. Họ Tân nhớ mặt Vương Vi chẳng do thân thiết gì mà bởi vì nó có họ, vùng Chài có tám thôn đặt tên từ một đến tám là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, riêng Nhâm, Quý thuộc thuỷ mà dân sông nước sợ thuỷ tai nên loại ra; Tân Cố ở thôn Giáp cả thôn chỉ mỗi nó có họ, thôn Ất chỉ nhà Vương Vi họ Vương và thêm cái nhà họ Nhân nữa là hai nhà, xét tiếp sáu thôn còn lại gom đủ mười họ: Tân, Vương, Nhân, Ngũ, Do, Bát, Tần, Môn, Cổ, Vi. Cái họ Tần thì mỗi một mạng mà còn là con nuôi được đặt tên cho, nhà họ Vi có đứa tên Vương thành thử đọc ngược Vi Vương thành Vương Vi nên cũng dễ nhớ, hiềm nỗi thằng nhóc hảo ngọt đó theo chú lên phố ba năm trước bị thương hàn qua đời rồi, lúc Vi Vương còn sống rất hay theo Tân Cố đi trộm gà xuyên thôn nên hắn nhớ lắm. Có điều Vương Vi so với Vi Vương cứ như voi với sóc ấy, nghĩa là nhóc hảo ngọt thì nhanh còn thằng hảo lì này thì chậm nhưng nó mạnh như quỷ, có mỗi nó là dám vào rừng U Minh ở rìa vùng Chài, hơn nữa nó cứ đi ra đi vô như thể nhà nó ở trong đó vậy, chẳng biết bà mẹ già của nó bị cái gì đè mà sinh ra nó nữa…
Vương Vi không trả lời câu hỏi của thằng đối diện, nó không thích thằng này vì nhà hắn chẳng nghèo nhưng ưa ăn cắp vặt, ngay cả mớ nấm mới mọc dưới đụn rơm nhà nó cũng ráng mò vào trộm bằng hết, đúng là giàu mà không sang, phú mà không quý. Giờ nghe tên này mở miệng tiếp liền khẳng định suy nghĩ của nó đúng:
“À mà mày còn xu nào không? Cho tao mượn một ít đi, mày biết nhà tao mà, cứ lại gặp tía tao đòi là được!”
Nhà ông Tân chở gạo là địa chỉ thân quen của dân xứ này, dù chưa đến lần nào nhưng chỉ cần hỏi dọc đường là người ta trỏ tới tận cửa, huống hồ con ổng mang danh “chồn cay, tay trộm lành nghề” đâu đâu cũng biết mặt.
“Mượn làm gì?”
“Tía dặn tao mua thuốc điếu mà hồi nãy tao quên nên lấy tiền mua kẹo cho tụi nó hết rồi, mày còn nhiêu cho tao mượn đi, mai trả!”
Thật ra, bấy giờ Vương Vi nghĩ thế này: lão Tân làm nghề chở gạo cũng mau mắn phết, ta tính đến học nghề thử, sau này lên phố bán gạo sẽ lời hơn. Khi ấy Vương Vi cũng không tưởng tượng được bước ngoặt của cuộc đời nó nằm ở số tiền mà nó sắp cho Tân Cố mượn, nằm ở những lời mà nó sắp thốt ra. Vương Vi thường giắt xâu tiền dưới thắt lưng, đó không chỉ là tiền mà còn là vũ khí, cùng với đôi dép của ba và cái chảo của mẹ, Vương Vi không coi trọng gì khác. Nó rút sợi dây kết mấy đồng xu ra, đếm thấy đủ mười một đồng, tức chẳng rơi xu nào từ nhà đến đây, trước khi xuất hành nó đã đếm kĩ hai lượt rồi. Tân Cố thấy đối phương có mười một đồng liền đảo lia, mắt hắn thấy tiền thì sáng thấy chữ thì tối, cái danh “chồn cay” không phải để chơi, việc chi chứ địa đồ dòm giỏ là bản lĩnh giữ nhà của họ Tân đây. Hắn vét túi quần được hai xu nữa, hiện tại gộp tổng tiền đôi bên là mười ba xu, đủ mua cái gì đó tương đối ở Lạn Nguyệt lâu.
“Tao với mày hùn là đủ tiền mua thuốc cho tía tao rồi…”
“Ai hùn với mày?”
“Thì tao mượn của mày, mười một xu, thế nha!”
Tân Cố quơ nắm tiền trên tay Vương Vi nhét túi quần mình rồi chạy đi, Vương Vi không đuổi theo, ngó cái bóng lưng màu vàng vừa thốt lên câu:
“Mai là tao trả à, yên tâm đi!”
Bầu không khí tuyệt hảo của buổi đêm không vì sự kiện nho nhỏ này mà trở xấu đi, Vương Vi tiếp tục đứng trong bóng tối ngắm trăm, tự nhủ muốn gặp chủ nhân của toà lầu này, hỏi về những thứ máy móc kia. Không xét chuyện kinh doanh thì Lạn Nguyệt lâu thực sự là nơi gắn bó với kỉ niệm của dân vùng Chài, mọi người đều thích tới đây lãm cảnh du ngoạn rồi trở về nhà, thuyền không thu phí ra vào trong khu chợ đêm nên ngay cả những người nghèo nhất cũng có thể lên chơi ngắm nghía, một nơi thật sự tuyệt vời. Vương Vi cả nghĩ, nếu một ngày nào đó mình còn sống, lập được cơ ngơi, sẽ giúp con cháu của chủ thuyền một tâm nguyện; dám nghĩ như vậy, chỉ có Vương Vi.