Y học cần phải tiến hành phân tích, luận chứng một cách lý tính và khoa học, trải qua rất nhiều nghiên cứu của các nhà y học mới đi đến nhận thức chung của giới y học. Việc sau khi rút máy móc hỗ trợ, hô hấp và nhịp tim tự chủ của bệnh nhân không thể khôi phục, nguyên nhân là do phần quan trọng nhất của não, thân não, đã chết và không thể cứu chữa bằng các biện pháp y tế, vì vậy gọi là chết não.
Các nhà y học cũng phát hiện, thiếu máu thiếu oxy sẽ dẫn đến chết não. Nếu được cấp cứu kịp thời, não trong một khoảng thời gian nhất định được máu lưu thông trở lại, cung cấp dinh dưỡng thì có khả năng khôi phục chức năng, tránh chết não.
Tóm lại, chết não có một khoảng thời gian chênh lệch. Việc sử dụng máy móc hỗ trợ trong quá trình cấp cứu để cứu các tế bào não là không sai. Nếu máy móc hỗ trợ trong thời gian dài mà bệnh nhân vẫn không thể khôi phục hô hấp và nhịp tim tự chủ, thì não đã chết, trước sau vẫn là người đã chết. Vấn đề tranh luận về chết não do đó quay trở lại khoảng thời gian chênh lệch này là bao lâu. Độ dài ngắn của khoảng thời gian này chính là nguyên nhân gây ra sự va chạm mạnh mẽ giữa các quan điểm trong xã hội. Khoa học không có cách nào kết luận cụ thể khoảng thời gian chênh lệch này ở mỗi cá nhân, do đó có khả năng chẩn đoán nhầm bệnh nhân đã tử vong.
Trong số liệu thống kê có một số dữ liệu lớn, không thể phân loại cụ thể vào từng cơ thể. Có người khoảng thời gian này dài hơn, có người ngắn hơn. Đừng xem thường khoảng thời gian chênh lệch một phút một giây này, nó thực sự có thể quyết định sự sống chết của một người.
Để chứng minh hoàn toàn về chết não, cần phải quay trở lại điểm xuất phát. Bác sĩ cần tìm được bằng chứng chứng minh não của bệnh nhân đã chết, chứ không chỉ nhìn vào thời gian để nói chuyện. Trước đây, bác sĩ chuyên khoa thần kinh có chuyên môn về mặt này, là người phù hợp nhất để tìm bằng chứng xác định bệnh nhân có bị chết não hay không. Vấn đề là, tình trạng thiếu nhân lực lâm sàng quá phổ biến. Để bù đắp cho việc thiếu nhân lực và không có điều kiện chờ đợi, cách làm phổ biến trên thế giới là đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán chết não, không cần bác sĩ chuyên khoa, chỉ cần bác sĩ lâm sàng, sau khi trải qua khóa đào tạo ngắn hạn và thi đạt tiêu chuẩn thì có thể đảm nhiệm.
Như vậy có thể có người sẽ lại nghi ngờ liệu bác sĩ không chuyên khoa thần kinh có đủ khả năng chẩn đoán chết não hay không.
Về vấn đề này không cần lo lắng. Thực ra xác định chết não là một quy trình, giống như xác định bệnh nhân bị ngừng tim cũng là một quy trình. Trong tiêu chuẩn chẩn đoán chết não, có một quy tắc là nghĩ, Cần phải xác định rõ nguyên nhân gây bệnh của bệnh nhân, xác định là tổn thương não không thể phục hồi dẫn đến chết não. Yêu cầu này đòi hỏi sự tham gia sâu của bác sĩ Ngoại Thần kinh, không thể bỏ qua.
Nói đến đây có thể hiểu, tại sao Tào Dũng lại kiên trì đưa đứa trẻ đến bệnh viện chuyên khoa như Phương Trạch. Rõ ràng là muốn phòng ngừa sơ hở một cách toàn diện. Có đội ngũ bác sĩ chuyên khoa thần kinh chuyên nghiệp nhất nghiên cứu, phân tích, có thể tránh được tối đa việc chẩn đoán sai tình trạng của đứa trẻ do thiếu sự nghiêm túc trong y học.
Điều này giải đáp một phần nghi ngờ của Tào Chiêu, đồng thời cũng nghe ra được từ lời nói của em trai một đáp án mà anh muốn nhưng lại không muốn: “Em cho rằng tình trạng của đứa trẻ lúc đó có khả năng đã xảy ra chết não rồi phải không?”
“Lúc đó em ở hiện trường, trên đầu ngoài đèn pin và tăm bông ra, còn có thể có cái gì?” Tào Dũng thấy buồn cười.
Không phải ngay từ đầu anh đã nói sao? Chẩn đoán y khoa là việc cực kỳ nghiêm túc. Dù anh là bác sĩ, nhưng không có mắt xuyên thấu, làm sao có thể nhìn xuyên thấu được tình trạng tổn thương não của đứa trẻ.
“Phải chụp CT, hơn nữa phải chụp nhiều lần CT.” Tào Dũng lại nhấn mạnh điểm anh đã nói.
Không nên coi kết quả chụp CT ban đầu mà chú nhỏ của anh ta tiết lộ qua điện thoại cho thấy đứa trẻ bị tổn thương thân não là kết quả cuối cùng.