Sao nỡ làm Muggle giữa thế giới phép thuật

Chương 86: Giải cứu Amy (2)



“Ôi lửa của Wraph còn có ngày tàn chứ nói gì đến dân Muggle thay đổi xoành xoạch chứ, thưa giáo sư.” 

Lửa của Wraph ư? Lần đầu tiên Giselle nghe đến câu cửa miệng này, thật thú vị.

“Thưa giáo sư, em nghĩ chúng ta nên đến nhà Amy luôn thì hơn. Đã muộn học hai ngày rồi, có lẽ Amy đang tìm cách trốn ra, nếu thật là có ai đang ngăn không cho cậu ấy đến trường...”

“Đúng là nên vậy,” giáo sư Conner đứng dậy, gật đầu chào bà chủ quán Một Vại Gillywater, “Cám ơn chị Blodwedd, hi vọng mọi việc thuận lợi để khi trở về, tôi có thể nếm thử một ly Gillywater đặc sắc của chị.”

“Merlin cầu phúc cho chị,” bà phù thủy gật đầu, nhìn hai cô trò Hogwarts độn thổ biến mất sau tiếng phụt.

Họ hiện ra bên cạnh một bãi đất hoang, nắng chiều dần tắt trên những ngọn cỏ dại mọc um tùm, lác đác đằng xa có một hai ngôi nhà, xa nữa là một chiếc quạt gió. Vị mặn của biển tràn vào lòng n.g.ự.c Giselle, xa xa kia tiếng sóng vỗ về từng cơn.

Đến giờ cô mới hỏi: “Thưa giáo sư Conner, đây là đâu ạ?”

Bà giáo vừa bước nhanh qua bãi cỏ dại phủ khắp tầm mắt vừa đáp: “Jaywick, trò Gibson ạ. Tôi e là nơi nhà trò Trujillo nhiều người nên độn thổ lệch hơi xa, chúng ta cần đi nhanh mới kịp.”

Jaywick, Giselle thầm thở dài trong lòng. Ngôi làng nhỏ ven biển này cũng như bao ngôi làng chài khắp nước Anh và Ireland, nếu trừ bỏ đi cái việc tên của nó xuất hiện hơi quá thường xuyên trên các tờ báo lớn nhỏ.

Còn tại sao lên báo ư? Vì Jaywick luôn nằm đầu bảng khi nhắc đến những nơi có tỷ lệ đói nghèo cao nhất nẻo đất này, rồi tỷ lệ thất nghiệp, bệnh tật, nghiện hút, thất học,... Những tệ nạn xã hội phái sinh từ cái nghèo ở ngôi làng nhỏ tí đều có cả.

Nơi đồng không m.ô.n.g quạnh này sao mà xơ xác tiêu điều, cái nắng chiều tàn còn nhuốm lên nó cái vẻ buồn bã hiu hắt hơn nữa, gió thổi mang không khí vừa mặn vừa tanh nồng, thổi luôn vào Giselle đôi chút gì đó thương cảm và đau buồn.

Phải đi hơn 15 phút hai cô trò mới bước tới rìa bãi đất hoang, đặt chân lên một con đường bê tông nứt nẻ. Đây có vẻ như là trục đường chính của khu này, nhiều ngôi nhà xây ven đường, rồi phía xa kia hình như là một khu trung tâm nho nhỏ.

“Chắc là hướng này,” tấm áo khoác của giáo sư Conner bay phất phới hướng đến nơi có nhiều nhà gần sát nhau.

Đi ngang qua Giselle mới nhận ra, đây có vẻ như là những căn nhà lắp ghép mà chính phủ cấp cho người thu nhập thấp và người vô gia cư. Nó còn tồi tàn hơn cả khu ngoại vi London nơi Zorander ở nhiều. Dù gì cũng ngoại ô thành phố, dân ở đó có thể tìm việc ở London hoặc mấy thành phố vệ tinh xung quanh. Còn ngôi làng ven biển này, ở thế kỷ trước vốn là nơi nghỉ dưỡng nhưng sớm bị bỏ hoang, cơ sở vật chất đến nay đã tồi tàn cũ kỹ, không có công ăn việc làm, tiền đâu mà sửa sang nhà mới. Những hộ nghèo nơi đây chỉ trông cậy vào các căn nhà lắp ghép từ ngân sách phúc lợi quốc gia mà thôi.

Hai người đi trên trục đường chính nãy giờ vẫn không thấy chiếc xe nào chạy qua, và đúng như bà Blodwedd nói, nhà nơi đây đều cửa đóng then cài, dấu vết người sống ít ỏi. Họa chăng lắm mới thấy một căn nhà có ghế xích đu cho trẻ em trước sân, nhưng cỏ mọc um tùm như cáo buộc chủ nhân nơi đây chẳng hề để ý gì đến không gian sinh sống của mình cả.

“Tới rồi, nếu đúng là địa chỉ này.” Giáo sư Conner thở hơi ra, hành trình đi bộ cũng không dễ chịu gì với một phù thủy hùng mạnh cả.

“Thưa giáo sư, để em bấm chuông cho ạ.” Giselle thở hết hơi.

Bà giáo gật đầu để Giselle bước lên thềm cửa. Đây là căn nhà trông cũng không khác gì những căn nhà lắp ghép khu này, những tấm ván gỗ ép tường trầy xước vì mưa bão, khoảnh sân trước nhà không có chiếc oto nào đang đỗ, chỉ có mỗi cái biển nhỏ xíu ghi địa chỉ để chứng minh còn có sự sống nơi này.

Số 39 Crossways, Jaywick, Clacton-on-Sea, Anh. (*)

Nhưng chuông cửa của ngôi nhà đã hỏng, chỉ còn mảnh đế trơ trọi ngắn lên tấm ván ép gỗ, còn như bộ khung rung chuông để hoạt động cho đúng tính năng dường như đã bị bàn tay ai đó đập nát.

Giselle đành gõ cửa, sau tiếng thứ ba, có tiếng chuyển động truyền ra từ trong nhà, rầm rầm ầm ĩ, cánh cửa mở toang.

Đó là một người phụ nữ cao gầy, gương mặt hõm sâu, Giselle như nhìn thấy mẹ của Zorander khi trước, khắc khổ và cay nghiệt.

“Tìm ai?” nói cộc lốc. Cô bỗng nhận ra đôi mắt của Amy khá giống người phụ nữ này, khác chăng là cửa sổ tâm hồn của bà đã khép kín, đôi con ngươi đó chỉ truyền ra những ánh nhìn giận dữ vô hồn.

“Xin hỏi đây có phải là nhà của Amy Trujillo không ạ? Cháu là...”

“Không, tìm sai chỗ rồi.” Người phụ nữ đóng sập cửa lại, tiếng đóng cửa làm căn nhà kêu rền.

Bất ngờ, hai vị khách lạ chẳng thể phản ứng gì hơn, nhưng Giselle đập cửa tiếp trước khi giáo sư Conner kịp nói gì đó.

Tiếng đập cửa ầm ầm lần này làm người phụ nữ phật ý, bà chỉ mở hé cửa, nạt ra: “Đi chỗ khác mà tìm, đừng đứng phá trước nhà tao. Nếu không tao sẽ gọi cảnh sát đấy.”

Rồi bà định đóng cửa lại, nhưng không thể vì Giselle lần này đã có phòng hờ, kê chân chèn cửa.

“Cháu nghĩ đúng là nên báo cảnh sát đó, cháu cũng cần báo họ Amy mất tích để họ tới tìm giúp...”

Tiếng trẻ con khóc náo lên truyền đến từ trong nhà, rồi nhiều tiếng rầm rầm gì đó, người phụ nữ bực bội hết sức, chửi nhiều tiếng “Shit” liên tiếp khi quay vào trong nhà.

Cửa vẫn mở để hai người khách lạ bước vào, giáo sư Conner bước vào rồi đóng cửa lại.

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

Căn phòng khách của nhà Trujillo tối tăm và chật chội. Tất cả cửa sổ đều đóng, lại còn gia cố thêm những mảnh ván gỗ đóng đinh khắp cửa sổ, như thể muốn ngăn không cho thứ gì đó có thể thoát ra khỏi căn nhà lồng giam này.

Nắng chiều thiêu đốt, nhiệt độ hừng hực trong ngôi nhà không có đường thoát khí. Không máy lạnh cũng không có quạt.

Thật ra nhiều nhà Anh khá giả cũng không lắp máy lạnh, nhưng sống giữa nơi này mà không có nổi một chiếc máy quạt thì thật cám cảnh.

Người phụ nữ nhanh bước ra với một đứa con nít ẵm trên tay, khóc quấy như muốn chấn vỡ từng miếng ván ép nơi đây.

“Khóc khóc khóc, chỉ biết khóc.” Bà quăng đứa con trai có vẻ cũng 4 5 tuổi rồi, nhưng thân hình ốm yếu nhỏ như chỉ mới 3 tuổi, lên chiếc ghế bành duy nhất trong phòng khách, chẳng thèm liếc nhìn hai người khách lạ còn đứng đó, lại quay trở vô trong làm gì đó tiếp.

Những tiếng rầm rầm từ đâu phát ra hòa với tiếng khóc quấy khó chịu của đứa con nít, giữa không gian kín bưng oi bức này, thật dễ làm con người ta cáu giận.

Giselle ghét nhất là tiếng trẻ con khóc quấy, những lần bộc phát pháp thuật lúc nhỏ của cô đều là do bọn con nít ở nhà trẻ khóc quấy kích dẫn ra. Giờ đây khi đã sắp đến sinh nhật 14 tuổi, cô vẫn cảm thấy ma lực mình đang hỗn độn rào rào muốn chảy ra để làm đứa nhóc nhỏ này im miệng.

Chỉ một chút pháp lực chảy ra thôi, không cần đũa phép gì, là đủ ếm bùa im lặng lên cái miệng đang ra sức khóc ré trước mặt này.

Chỉ một chút thôi.

Nhưng trong lúc Giselle cố gắng thở đều để kiểm soát ma lực hỗn loạn của mình, giáo sư Conner bước đến ghế bành, ngồi sụp xuống, móc từ trong túi áo ra vài viên kẹo gì đó đưa cho đứa nhóc.

“Này, cậu bé đừng khóc nữa, xem cái gì nè.” Thật ngạc nhiên là bà giáo có thể nói chuyện dịu dàng đến vậy, khác xa hình ảnh nghiêm nghị thường ngày khi đứng lớp Phòng chống nghệ thuật hắc ám.

Cậu nhóc ngưng khóc, vừa nấc vừa cầm lấy mấy viên kẹo có gói bọc sặc sỡ xanh vàng, bóc ra bỏ ngay vào miệng. Giselle nhớ đã vài lần thấy Nol ăn loại kẹo này, hình như lúc ăn sinh nhật ở nhà Matt cũng có. Nhưng loại này có vẻ giống như kẹo Muggle bình thường, không có gì đặc biệt như kẹo đủ vị nên không được mấy đứa nhóc phù thủy yêu thích.

Thế mà trong túi áo giáo sư Conner lại có, thật thần kỳ. Và cũng thần kỳ không kém là cậu nhóc ăn hai ba viên kẹo xong lại nín khóc, chuyển sang ngó chằm chằm hai vị khách lạ.

Người phụ nữ bây giờ mới lê bước ra, trên tay cầm một chiếc tô gì đấy, có vẻ đựng ngũ cốc sữa, đưa cho cậu nhóc.

“Hết khóc rồi ăn, hết ăn rồi khóc, tao sinh ra thứ vô dụng như chúng mày để làm gì cơ chứ...”

Đứa nhóc không nói gì, chỉ vừa múc từng muỗng ngũ cốc vừa ngó hai vị khách. Vẫn nhìn cậu bé, Giselle bỗng nhiên bật thốt lên: “Cậu bé không nghe thấy.”

“Sao trò...?” giáo sư Conner bất ngờ quay ngoắt nhìn Giselle, nhưng tự chủ kiềm lại những gì muốn nói tiếp. Bà nhìn lại cậu nhóc rồi tỏ ý hỏi người phụ nữ, bà mẹ nhẹ gật đầu.

Nhưng thương cảm mau chóng chuyển thành cay nghiệt: “Nhìn đủ rồi chứ gì? Vậy xin các người đi cho. Amy không đi học lại cái trường quỷ quái đó nữa đâu.”

Cuối cùng bà cũng thừa nhận đây là nhà của Amy, nhưng: “Trò Trujillo đâu rồi thưa bà?”

Tiếng rầm rầm vẫn phát ra từ đâu đấy trong căn nhà, bà mẹ Trujillo đáp: “Đi làm rồi.”

Giáo sư Conner tưởng như mình nghe lầm: “Làm ư? Một phù thủy...” bà ngừng lại trước cái nhìn phẫn nộ của người phụ nữ, “...một trẻ vị thành niên, sao có thể đi làm được?”

“Sao không chứ? Bọn trẻ quanh đây đều đi làm hết rồi. Nhà này không nuôi nổi một đứa nhóc chỉ biết ăn không ngồi rồi đâu.”

“Nhưng thưa bà, trò Trujillo chỉ mới 14 tuổi, còn chưa đến 14, đây là độ tuổi cần tiếp nhận giáo dục...”

“Tao đã nói rồi, bọn trẻ quanh đây đều đi làm hết, có đứa 11 12 tuổi đã kiếm được tiền rồi.”

“Nhưng...”

“Nơi nào nhận trẻ em dưới 16 tuổi là lao động bất hợp pháp, nếu cảnh sát biết sẽ bị bắt và phạt tiền,” Giselle nói.

Trông bà Trujillo chẳng có vẻ gì sợ sệt trước việc con mình sẽ bị bắt: “Thế cũng tốt, vô trại giáo dưỡng trẻ vị thành niên, ăn uống ở đó đỡ tốn tiền.”

Không biết giáo sư Conner có biết trại giáo dưỡng trẻ vị thành niên của Muggle là gì không, nhưng bà nghe hiểu ý tứ của phụ huynh và vì thế cơn giận bộc phát: 

“Đó là con gái bà, thưa bà! Trò Trujillo mới 14 tuổi! Bà trông đợi gì một đứa trẻ 14 tuổi kiếm tiền nuôi gia đình chứ! Thay vào đó sao không để cô bé học xong, trưởng thành ra trường đi làm rồi sẽ phụ giúp gia đình.”

“Nhưng nhà tao không có tiền, không có tiền bà hiểu không?” bà Trujillo tiếp tục đay nghiến, “Không có tiền sẽ c.h.ế.t đói, c.h.ế.t đói trước khi con nhỏ học xong cái trường quỷ thần đó.”

Tiếng oto chạy vào trong sân nhà cắt ngang cuộc cãi vã, tiếng rầm rầm khó chịu vẫn vang lên đâu đó, cái nóng hầm hập làm con người ta phát bực. Nhưng tất cả những điều đó chừng như chẳng tác động gì đến đứa trẻ nít, nó ăn xong rồi ngồi nhìn như thể thế giới này mặc ta xoay vần.