Tiễn Tạ Tự đi rồi, ta vốn tưởng cuộc sống sẽ trở lại yên bình, nào ngờ từ đó, hễ đến kỳ nghỉ, hắn đều tới thăm.
Mỗi lần đến đều mang theo lễ vật, không phải vàng bạc gấm vóc, mà là gạo muối dầu, sách vở thi văn.
Cho dù ta từ chối, hắn cũng biết tiến biết lùi; dẫu sao tuổi đôi mươi đã đỗ Thám hoa, lại ra ngoài làm quan ba năm, đã sớm quen thuộc nhân tình thế thái.
Tất cả chỉ xem hắn có muốn hay không.
Ngày xưa hắn hờ hững với ta, chẳng qua là bởi ta không đáng hắn hao tâm mà thôi.
Nhưng gạt bỏ những oán hận trước kia, một Tạ Tự buông thân phận xuống, quả thực đa tài uyên bác, là một tri kỷ phu tử tốt.
Hắn đọc sách khoa cử chính thống, lại có kinh lịch nhiều năm, trò chuyện thường gợi cho ta nhiều điều.
Một buổi trưa xuân ấm, hắn nghỉ việc từ trong thành về, giữa đường gặp ta đang vẽ bên suối, liền giúp ta gánh giá vẽ về tiểu viện.
Tổ mẫu múc nước suối pha trà, hương thơm mát lành.
Hắn nhấp trà, bỗng nói:
“Lê nương, có thể cho ta một cơ hội nữa, trở về Bá phủ được không?”
Ta không trả lời, chỉ bình thản uống cạn chén trà, rồi nói:
“Tạ đại nhân, mời đi theo ta.”
Ta dẫn hắn vào nội viện, đẩy cửa thư phòng.
Ngoài cửa sổ, hoa lê đã qua độ rực rỡ, rơi trắng khắp đất, gió thổi bay cả vào thư phòng.
Phòng đầy tranh vẽ, mùi mực lan khắp.
“Tạ đại nhân, nếu còn ở Bá phủ—”
Ta nhìn hắn:
“Ta sẽ không có thư phòng như thế này.”
Trên mặt hắn thoáng lướt qua vẻ hối hận, còn chưa kịp nói gì, ta đã ngắt lời:
“Cũng sẽ chẳng có thời gian rảnh để ta vẽ tranh.”
Hắn lập tức im lặng.
“Những năm gả cho ngài, đôi lúc ta thật sự thấy tủi thân.”
Ta chăm chú nhìn tranh:
“Nhưng ngài oán ta cũng chẳng sai, suy cho cùng, lỗi cũng thuộc về ta.”
“Không, là ta sai, ta tuổi trẻ ngông cuồng, làm nàng tổn thương quá sâu.”
Tạ Tự đứng trước cửa, cười tự giễu:
“Phí công ta đọc bao năm thánh hiền thư.”
Ta cũng cười, tay vuốt ve bức họa, khẽ nói:
“Đêm tân hôn ấy, ta đau lắm, đau đến mức nảy sinh nỗi sợ hãi khủng khiếp với chuyện chăn gối.”
Mặt Tạ Tự chợt đỏ bừng, cả cổ cũng nóng ran, xấu hổ đến mức chẳng thốt nổi một lời.
Truyện được đăng trên page Ô Mai Đào Muối
“Thực xin lỗi, ta là kẻ thô lỗ.”
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
Ta nhướng mày nhìn hắn:
“Sau này khi ngài từ ngoài trở về, hôm đó ngài lại rất dịu dàng.”
“Ta nhớ rất nhiều khoảnh khắc khó xử và tủi nhục, nhớ lần ngài xuất ngoại, ta dồn hết can đảm hỏi có thể theo cùng không.”
Đổi lại, là tiếng quát lạnh lùng, từng chữ như dao.
“Nhưng, tất cả rồi cũng sẽ qua.”
Ta nhìn gương mặt ân hận của hắn:
“Những cảm xúc ấy từ sau khi hòa ly ta hiếm khi còn nhớ tới. Ta không muốn trở lại Bá phủ, bởi vị trí quý phụ cao môn kia không phải cuộc sống ta mong muốn.”
“Tính ta biếng lười, lại sinh ra ở thôn dã, quen tự do. Bốn năm nơi Bá phủ, sáng tối vấn an, gánh vác nội vụ, ta gần như không thở nổi.”
“Tạ đại nhân.”
Ta chỉ vào căn phòng đầy tranh, mỉm cười:
“Ngài xem, tranh của ta giờ đây đâu chỉ có một gốc lê nữa.”
19
Lần đầu tiên, vào ngày nghỉ, Tạ Tự chưa đợi thành đóng đã vội vàng quay về, mang theo mấy phần dáng vẻ như chạy trốn.
Ngày tháng của ta lại khôi phục yên bình; nấu trà uống rượu, đọc thơ vẽ tranh, đôi khi còn tiếp đãi mấy vị nữ tử cùng bán tranh ở Khê Sơn Các.
Thanh Trúc cứ mười ngày lại đến thăm ta một lần, nhờ nàng mà ta biết được không ít tin tức.
Ví như từ khi ta rời đi, sổ sách trong phủ đã trở nên rối loạn không rõ ràng.
Ví như Tạ Tự bỗng dọn sang ở tại Lãnh Hà viên ở hậu viện, còn cho tu sửa một thư phòng cực lớn, thông suốt cả đông tây.
Lại ví như, lão phu nhân gần đây bận rộn xem mắt tiểu thư khuê các kinh thành cho hắn, nhưng tất thảy đều bị Tạ Tự cự tuyệt.
Ta chỉ nghe rồi bỏ qua, chuyện nơi núi rừng mỗi ngày vốn đã muôn màu, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ rộng mở, cảnh sắc mênh m.ô.n.g vô biên, bao chuyện khác chẳng thể lưu lại trong lòng ta nữa.
Khi hoa lê đã rụng hết, bắt đầu kết quả, Tạ Tự lại tìm đến tiểu viện trên núi của ta.
Lúc ấy vừa đầu hạ, mưa bụi giăng giăng không dứt, dãy núi xa xa như phác họa thành bức tranh thủy mặc mờ ảo, như khói như sương.
Tạ Tự khoác áo tơi, đội nón cỏ, gõ cửa viện ta.
Ta bung dù giấy dầu ra mở cửa, thấy hắn đội mưa đến thì vừa kinh ngạc vừa khó hiểu.
Hắn khẽ cười với ta, dịu dàng, rồi nghiêng người, nhường chỗ cho người sau lưng bước ra.
Một thiếu niên mười bảy mười tám tuổi, da ngăm đen, nửa vành tai bị c.h.é.m mất, khuôn mặt đầy vết sẹo dữ tợn, còn bị khắc hình xăm trừng phạt.
Nửa con mắt chưa mù kia của y rưng rưng lệ, cố nở nụ cười với ta:
“A tỷ.”
Chiếc ô trong tay ta rơi xuống đất, ta nhào vào lòng thiếu niên ấy, bật khóc thảm thiết, toàn thân run rẩy đến mức gần như không nói nên lời.
Tổ mẫu nghe động, hốt hoảng chạy ra, vừa thấy cảnh đó liền sững sờ ngay tại chỗ.
Hành ca nhẹ vỗ lưng ta, rồi bước đến trước bậc thềm nơi tổ mẫu đứng, quỳ xuống dập đầu ba cái thật mạnh:
“Tổ mẫu, cháu bất hiếu, nay đã trở về.”
Tổ mẫu kêu lên một tiếng, loạng choạng ngã vào bên cửa, òa khóc gọi: