"Phu nhân, sau khi phòng bốc hỏa, nàng chạy ra ngoài, dường như đ.â.m trúng giả sơn, hôn mê bất tỉnh."
Ta nghe có người bẩm báo.
Tấn An Hầu phu nhân lạnh nhạt nói:
"Ai biết có phải giả vờ ngất hay không? Cẩn thận thì hơn, cho mời Lâm đại phu tới khám."
"Vâng."
Lòng ta chợt lạnh.
Một người đang tỉnh táo nếu giả vờ ngất, có thể qua mắt người thường, nhưng sao qua nổi mắt đại phu?
Nếu bọn họ phát hiện ta giả ngất, liệu sẽ xử trí ra sao?
Nếu ta c.h.ế.t trong tay bọn họ, Nguyên Sơn có biết không?
Cắn răng chịu đựng, nhân lúc bọn họ chưa chú ý, ta dốc sức lấy huyệt Phong Trì nơi sau gáy, mạnh mẽ đập vào góc nhọn của gối sứ.
Trong khoảnh khắc, ta thực sự ngất lịm đi.
Lần nữa tỉnh lại, bốn bề yên ắng.
Lúc mở mắt, ta thấy mình đang ở trong một gian phòng đơn sơ nhưng ấm áp.
Đồ đạc trong phòng tuy chẳng phải mới tinh, nhưng cũng không quá cũ nát. Bàn ghế đều được bọc vải mềm ở các góc cạnh.
Mọi thứ nơi đây, đều quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn.
Ta nhắm mắt lại, vươn tay sờ thử.
Không thể sai được, đây chính là phòng của ta.
Năm xưa gả cho Triệu Nguyên Sơn, ta dọn vào đây.
Thuở mới mù, ta thường va đụng khắp nơi, thương tích khắp mình. Nguyên Sơn thương ta, bèn đích thân bọc hết các góc nhọn trong phòng, cả ngoài viện, bằng vải mềm.
Giờ ta đã quay về rồi.
Từ phủ Tấn An Hầu, quay trở về nhà mình.
Làm sao trở về được? Là Nguyên Sơn đưa ta về phủ ư?
Lòng ta chất đầy nghi hoặc.
Đúng lúc ấy, cửa phòng bị đẩy ra, một đại nha hoàn độ chừng hai mươi tuổi bưng chậu nước bước vào.
Chân mày đôi mắt nàng đã nở, so với năm năm trước đã có nhiều thay đổi.
Nhưng ta nhận ra nàng ngay lập tức, chính là nha hoàn thân cận của ta: Tuệ Nhi.
Tuệ Nhi thấy ta ngồi dậy, kinh hãi rồi vội vã chạy đến:
"Phu nhân, sao người lại tự mình ngồi dậy vậy? Nếu lại đụng phải đâu đó, nô tỳ có trăm cái đầu cũng không đủ để tạ tội!"
Ngữ khí nàng tràn đầy chân tình.
"Vừa nãy do đầu bếp lơ đãng ngủ gật khi hầm canh, lửa bén cháy gian củi hậu viện, phu nhân hẳn đã bị hoảng sợ rồi phải không? Lâm đại phu ở phố Đông đã tới xem qua, kê đơn t.h.u.ố.c rồi dặn phu nhân phải an tĩnh nghỉ ngơi. Gia hiện đang tiễn Lâm đại phu ngoài tiền sảnh."
Lâm đại phu… là vị vẫn thường khám bệnh cho ta, hay là Lâm đại phu trong miệng Tấn An Hầu phu nhân?
"Tuệ Nhi, ta làm sao mà…"
Ta vốn tin nàng.
Nhưng lời còn chưa dứt, ta đã trông thấy trên nét mặt nàng là vẻ mỉa mai và chán ghét lồ lộ.
Giọng điệu nàng đầy chân thành hóa ra chỉ là ngụy trang, cười cợt và khinh miệt mới là bản tâm.
Lòng ta bỗng lạnh lẽo.
Tuệ Nhi phản chủ, e rằng chuyện ta xuất hiện ở phủ Tấn An Hầu hôm nay cũng có phần dính líu đến nàng ta.
Đã vậy, chuyện ta từng thấy gì trong Hầu phủ, chuyện đôi mắt ta bỗng sáng lại, tuyệt không thể để nàng ta biết.
Ta liền đổi lời: "Tuệ Nhi, khi nãy ta tìm mãi không thấy ngươi, ta là kẻ mù lòa, nghe có người hô có hỏa hoạn, thực sự bị dọa đến hồn phi phách tán."
Tuệ Nhi đáp: "Phu nhân thứ tội, là nô tỳ sơ sót. Lúc lửa bốc lên, nô tỳ một lòng muốn mau chóng dập lửa để phu nhân được bình an, quên mất phu nhân sẽ hoảng loạn và lo lắng."
"Phu nhân, người cứ phạt nô tỳ đi."
Hồng Trần Vô Định
Ta mỉm cười: "Chúng ta cùng lớn lên từ nhỏ, ngươi đâu phải cố ý phạm lỗi, ta sao nỡ phạt ngươi?"
Tuệ Nhi cũng cười: "Phu nhân đối với nô tỳ thật tốt."
Nàng bỗng nín thở, chăm chú nhìn sát vào mắt ta.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
Ta giả vờ như không biết.
"Phu nhân, mắt người có đỡ hơn chút nào không? Vừa rồi nô tỳ thấy mắt người dường như có động đậy."
Lòng ta giật thót, liền vội vàng cười khổ: "Lâm đại phu xem mắt ta đã năm năm, nếu có thể khỏi thì đã khỏi rồi. Tuệ Nhi, đừng vì an ủi ta mà nói lời này, ta sớm đã nhận mệnh rồi."
"Nô tỳ chỉ hy vọng phu nhân sớm ngày bình phục. Nếu mắt phu nhân có thể thấy lại, hôm nay cũng chẳng đến nỗi sẩy chân ngã mà ngất."
Vẻ dò xét và nghi ngờ trên mặt Tuệ Nhi đã tiêu tán quá nửa.
Ngay lúc ấy, cửa phòng bị đẩy ra.
Tuệ Nhi quay đầu nhìn, reo lên lanh lảnh: "Gia, người về rồi. Phu nhân vừa mới tỉnh lại."
Là phu quân Triệu Nguyên Sơn của ta đã trở về.
Kể từ khi trông thấy nữ tử kia trong phủ Tấn An Hầu, dây thần kinh trong lòng ta vẫn luôn căng thẳng như giương cung.
Giờ khắc này, cuối cùng cũng có thể buông lỏng xuống.
2
Phu quân Triệu Nguyên Sơn của ta là thanh mai trúc mã với ta từ thuở nhỏ.
Ta từ bé đã có dung mạo khả ái, mà nhà họ Triệu lại xuất thân hàn vi, Triệu Nguyên Sơn lo sợ sau khi thành thân sẽ không bảo hộ được ta, nên mười lăm tuổi đã tòng quân, ra biên ải rèn luyện.
Năm năm sau hồi kinh, hắn đã từ một tiểu binh được thăng làm phó tướng.
Tuy chỉ là phó tướng, nhưng lại dưới trướng của tam hoàng tử đương triều.
Năm kế tiếp khi hồi kinh, tam hoàng tử đăng cơ làm đế, Triệu Nguyên Sơn bỗng chốc trở thành nhân vật được triều đình săn đón.
Chúng nhân đều nói, chức Thượng thư bộ Binh chính là vị tân đế để dành cho Triệu Nguyên Sơn.
Thế nhưng bất luận là thế gia vọng tộc hay hoàng tộc tôn quý, dù bao phen ra mặt kết giao, hắn đều chẳng đoái hoài. Trái lại, hắn còn vội vã tìm người mai mối, lập tức định hôn sự giữa ta và hắn.
Vì vậy mà đắc tội với Luật vương.
Khi Luật vương sai người đến dạy dỗ hắn, ta và hắn lại đúng lúc đang lên hương ở miếu Nguyệt Lão, ta vì che chắn cho Triệu Nguyên Sơn mà trúng độc, thành ra mù mắt.
Sau khi ta mù, Triệu Nguyên Sơn ôm lấy ta mà khóc một trận t.h.ả.m thiết.
Rồi hắn ba quỳ chín lạy ngoài cửa cung, khẩn cầu thánh thượng nghiêm trị Luật vương.
Luật vương cùng hoàng đế là huynh đệ cùng mẹ sinh ra, tuy trong cuộc tranh đoạt ngôi vị từng có hiềm khích, nhưng chung quy vẫn là huynh đệ ruột thịt.
Hoàng thượng vốn định khoan dung cho qua.
Thế nhưng Triệu Nguyên Sơn chẳng chịu, cố chấp tranh lý, quyết đòi Luật vương phải trả giá.
Cuối cùng, hoàng đế hạ chỉ, đem phong địa của Luật vương từ vùng phồn hoa Dự Châu đổi thành Thôi Châu kém hơn hẳn, lấy đó làm gương cho kẻ khác.
Cũng bởi vậy, Triệu Nguyên Sơn thất sủng, từ đó dậm chân tại vị trí phó tướng, không thể tiến thêm nửa bước.
Ta trong lòng day dứt khôn nguôi, nhưng Triệu Nguyên Sơn lại chỉ cười nói không sao, rằng quyền thế phú quý đều chẳng bằng ta.
Chúng ta thành thân.
Sau khi thành thân, Triệu Nguyên Sơn đối với ta vô cùng chu toàn.
Bởi vì mù lòa nên ta không muốn ra ngoài, mỗi khi hắn không vào triều, đều ở nhà bầu bạn cùng ta.
Năm thứ hai sau hôn lễ, phụ thân và đệ đệ ta dẫn thương đoàn đi Mạc Bắc buôn da thú, chẳng may gặp phải đạo tặc, bỏ mạng nơi xứ người.
Triệu Nguyên Sơn thay ta lo liệu hậu sự cho phụ thân và đệ đệ.
Từ đó, ta chẳng còn thân thích nào trên đời, Triệu Nguyên Sơn lại càng chăm sóc ta tận tình, sợ ta phải chịu nửa phần ấm ức.
Ba ngày trước, kinh thành xuất hiện một tên cường đạo khét tiếng, Triệu Nguyên Sơn bận truy bắt nên không thể về phủ.
Ta đoán, người phủ Tấn An Hầu chính là thừa dịp hắn vắng mặt mà đem ta đi.
"Vân Hoàn, nàng cảm thấy thế nào?" Triệu Nguyên Sơn nắm lấy tay ta, thần sắc vừa quan tâm vừa áy náy.
"Là ta có lỗi, nếu không phải nhiều ngày chưa về, nàng cũng đâu đến nỗi kinh hãi như vậy."
Hắn xua tay ra hiệu cho Tuệ Nhi lui xuống, nàng ta vén váy thi lễ rồi nhẹ nhàng lui ra ngoài.
"Nguyên Sơn, ta không sao." Ta mỉm cười, "Nếu không nhờ biến cố ấy, ta cũng chẳng được hưởng phúc trong họa."
"Phúc trong họa gì cơ?" Triệu Nguyên Sơn kinh ngạc hỏi.
Ta đang định đem chuyện đôi mắt đã sáng lại báo cho hắn, chợt liếc thấy bên dưới rèm cửa, lộ ra một đôi hài màu xám xanh.
Mũi hài thêu hai hạt châu đỏ, chính là đôi hài ta ban thưởng cho Tuệ Nhi vào tiết Thượng Nguyên năm nay.
Nàng ta đang đứng ngoài rèm, ngầm giám sát cuộc trò chuyện của ta và trượng phu.
Lời đến miệng ta bèn nghẹn lại nơi cổ họng, vội vàng đổi giọng:
"Phu quân bận công vụ, nhiều ngày chưa thể về nhà, mà giờ trong phủ lại xảy ra hỏa hoạn, phu quân lập tức về gặp ta, đối với ta chẳng phải là trong họa có phúc hay sao?"
Triệu Nguyên Sơn bật cười: "Vân Hoàn nếu nhớ ta, sai người đến nha môn đưa lời là được. Ta chỉ mong nàng đời này thuận buồm xuôi gió, vô ưu vô lo."