Tuyết càng lúc càng rơi dày hơn, trong lòng tôi và Lão Giang như có một bình ngũ vị hương bị lật đổ, đủ mọi cảm xúc đan xen bi thương, phẫn nộ, tiếc nuối, bất lực...
Bên cạnh, Ngân Linh định mở miệng nói gì đó, nhưng lại bị Hạ Lan Tuyết khẽ đặt tay lên, ra hiệu im lặng. Lúc này, chỉ có sự trang nghiêm và tôn kính mới xứng đáng dành cho những người đã hy sinh.
Không biết chúng tôi đứng đó bao lâu, đến khi đám đông trong nhà ga dần tản hết.
Thân hình Tưởng Vạn Lý khẽ run lên, rồi chậm rãi bước về phía chúng tôi. Có lẽ vì đau thương quá sâu, hoặc cũng có thể do chân đã tê cứng trong tuyết, bóng ông hơi loạng choạng, bước đi chậm chạp.
Tôi cảm thấy, chỉ trong thoáng chốc, người đàn ông ấy như già đi mấy chục tuổi. Sự ra đi của đồng đội, sự mất mát của quốc bảo, nỗi thất vọng của đồng bào, tất cả đều là những vết thương khó nguôi trong lòng ông.
“Giáo sư, xin chia buồn.” Lão Giang bước lên, chìa tay ra, khẽ nói như một lời an ủi.
Tưởng Vạn Lý đôi mắt đỏ hoe, giọng khàn đặc: “Các vị cứ yên tâm, từ ngày thành lập Tự Do Công Xã, chúng tôi đã sớm xem nhẹ chuyện sinh tử rồi…”
Nói rồi, ông hỏi chúng tôi có rảnh không, nếu tiện thì cùng đi uống một ly. Trên hàng mi của ông, những bông tuyết đọng lại, phủ thành một lớp trắng xóa, không biết là tuyết lạnh hay tóc sương bạc.
Lão Giang trầm mặc giây lát, rồi gật đầu đồng ý. Chúng tôi bước vào một quán rượu nhỏ gần ga.
Tưởng Vạn Lý vẫn giữ phong thái nhã nhặn, mỉm cười đưa thực đơn cho từng người:
“Các vị cứ chọn món đi. Ở đây món ‘Bắp cải Càn Long’ làm rất đúng vị, nên thử xem.”
Ông nói năng tự nhiên, sắc mặt điềm tĩnh, dường như không bị nỗi bi thương khi đồng đội ngã xuống làm ảnh hưởng. Nhưng tôi biết rõ — tất cả chỉ là giả vờ bình tĩnh.
Càng đau đớn, ông càng cố kìm nén; bởi với thân phận và lý tưởng của mình, ông không được phép sụp đổ, không được phép thất lễ.
Chúng tôi cụng ly. Tưởng Vạn Lý nhẹ nhàng nâng chén, khẽ chạm vào chén của chúng tôi, rồi ngửa cổ uống cạn.
Ngân Linh tò mò hỏi: “Tự Do Công Xã… rốt cuộc là tổ chức như thế nào vậy? Và cái hình trên phù hiệu trắng kia, nó có ý nghĩa gì thế ạ?”
Tưởng Vạn Lý nhẹ lau cặp kính, giọng chậm rãi, có phần trầm buồn:
“Các cô cậu có lẽ không biết… Nguyên nhân khiến chính quyền lúc ấy suy yếu là vì dân quốc đã mục nát, nhưng những người trẻ vẫn luôn mang trong tim ngọn lửa cứu nước. Năm xưa, tôi từng tham gia phong trào Ngũ Tứ, từng phản đối quân phiệt Bắc Dương, từng cầm ‘Tân Thanh Niên’ mà thề phải thay đổi thời cuộc. Nhưng tất cả đều thất bại bởi sức của lớp trẻ khi ấy còn quá nhỏ bé.”
Ông dừng lại, rót thêm một ly rượu, rồi mỉm cười nhạt:
“Sau này, khi tôi dạy học, tôi đã lập nên ‘Tự Do Công Xã’. Biểu tượng thanh kiếm xuyên qua mây đen trên phù hiệu… là do chính tôi thiết kế. Nó tượng trưng cho niềm tin rằng công lý, rồi sẽ phá tan bóng tối.”
“Dần dần, những học trò chịu ảnh hưởng từ tôi cũng gia nhập vào, sau đó là đồng nghiệp, các nhà khảo cổ, nhà sử học, thậm chí cả những nhân sĩ giang hồ có bản lĩnh. Đội ngũ của chúng tôi cứ thế mà lớn dần lên…”
Lúc ấy, cả nước đang trong thời kỳ trộm mộ hoành hành dữ dội. Trong một lần tình cờ, Tưởng Vạn Lý nghe được tin về việc khai quật ngôi mộ số Một ở Trường San bên trong có một chiếc đỉnh đồng vô giá, nhưng vừa mới ló ra khỏi lòng đất thì đã bị thế lực ngoại quốc cướp đi.
Thế là ông nhận ra, thay vì chỉ biết hô hào khẩu hiệu, chi bằng hãy để những người trẻ có m.á.u nóng thật sự làm điều gì đó cho dân tộc.
Dưới sự dẫn dắt của ông, Tự Do Công Xã đã phá vỡ không ít âm mưu của bọn trộm mộ. Tuy năng lực còn kém xa “Kỳ Lân”, nhưng việc họ làm lại cùng một mục tiêu — bảo vệ di sản của tổ tiên.
Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha. Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️
“Chúng tôi từng bảo vệ được cặp vòng ngọc bích, ngăn không cho nó bị bán sang Pháp.”
“Cũng từng thu hồi lại chiếc chén Kim Âu Vĩnh Cố, giờ đang trưng bày ở Bảo tàng Bắc Bình. Anh biết không, ai nhìn thấy nó cũng phải trầm trồ khâm phục tay nghề của thợ thủ công Trung Hoa.”
…
Nhưng lần này, ông không ngờ bọn ngoại quốc lại dám vươn tay đến tận Đôn Hoàng!
Khi ấy, Bạch Băng — người đồng sáng lập Tự Do Công Xã đã từ Tây Bắc gửi tin về: Warner đã bí mật xâm nhập Trung Quốc, mang theo nhiều vũ khí hạng nặng, dường như muốn tiến sâu vào sa mạc Đôn Hoàng.
Bạch Băng vốn là đồng nghiệp cũ của Tưởng Vạn Lý. Trong một lần khảo sát ở Tây Bắc, ông ta đem lòng say mê Đôn Hoàng, rồi quyết định ở lại đó, trở thành người canh giữ nơi sa mạc.
“Bạch Băng thường gửi cho tôi những bức ảnh về núi Minh Sa, về suối Nguyệt Nha, và cả những bích họa tuyệt đẹp ở Mạc Cao Quật. Ông ấy đã hiến trọn đời mình cho nơi ấy… nhưng cuối cùng, vẫn không thể bảo vệ được nó.”
“Các vị khách của Kỳ Lân, lão phu có một thỉnh cầu mạo muội.”
Nói đến đây, Tưởng Vạn Lý bỗng đứng dậy, cúi người thật sâu. Chúng tôi vội vàng đỡ ông dậy, không dám nhận lễ ấy, rồi hỏi ông muốn nhờ chuyện gì.
Tưởng Vạn Lý cẩn trọng đưa ra pho tượng đất nhỏ có đầu rắn, thân người: “Lúc ở ga tàu, tôi đã suy nghĩ rất lâu. Với thế lực của Warner, muốn tiêu diệt Tự Do Công Xã chẳng khác nào bóp c.h.ế.t một con kiến.”
“Nếu trên đời này còn có ai có thể đối đầu trực diện với hắn, thì chỉ có Kỳ Lân mà thôi.”
“Trong sa mạc mênh m.ô.n.g Đôn Hoàng, còn chôn giấu vô số báu vật của tiền nhân. Tuyệt đối không thể để âm mưu của Warner thành công. Xin nhờ các vị!”
Lão Giang nhìn pho tượng đất, trầm ngâm không nói.
Tôi liên tục ra hiệu với ông — đây là chuyện trên đất Trung Hoa, Warner dám công khai khiêu khích, chẳng khác nào phỉ nhổ lên danh dự của Kỳ Lân. Dù xét tình hay lý, chúng tôi cũng không thể làm ngơ!
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
“Giáo sư Tưởng, việc này hệ trọng, tôi không thể tự quyết.” Lão Giang thở dài.
“Nhưng xin yên tâm, tôi sẽ hết sức thuyết phục lão đại. Hãy chờ tin của tôi.”
Ông giơ hai tay, cung kính nhận lấy pho tượng, như thể đó là gánh nặng ngàn cân mà ông đang mang trên vai.
Rời khỏi quán rượu, chúng tôi lập tức quay về trụ sở Kỳ Lân. Trên đường, Ngân Linh bực tức mắng Warner, rồi lại hỏi:
“Những người trên chuyến tàu ấy, c.h.ế.t t.h.ả.m như vậy… Họ liều mạng để giữ mấy món đồ chôn dưới đất, liệu có đáng không?”
Hạ Lan Tuyết dịu dàng xoa đầu cô: “Giờ con còn nhỏ, sau này sẽ hiểu thôi.”
Trở lại tòa nhà đen quen thuộc, Lão Giang bảo chúng tôi ở lại tầng dưới, còn ông một mình bước vào thang máy, đi thẳng lên tầng cao nhất nơi bí ẩn nhất của Kỳ Lân.
Tôi đứng bên cửa sổ, nhìn tuyết rơi trắng xóa ngoài trời, chẳng biết bao giờ mới dừng. Tôi nghĩ cuộc báo cáo này chắc sẽ mất rất lâu, nào ngờ chỉ vài phút sau, thang máy lại mở ra.
Lão Giang bước ra với vẻ mặt nghiêm nghị, toàn thân tỏa ra một khí thế khác hẳn thường ngày.
Ông nói: “Lão đại chỉ nói một câu sinh tử vì nước, toàn lực ứng chiến!”
Đó chính là ý của Kỳ Lân, và cũng là sứ mệnh của mọi thành viên nơi đây — Trong giờ khắc nguy nan, phải bảo vệ từng tấc đất, từng món quốc bảo của dân tộc này.
Điều khiến tôi kinh ngạc hơn cả là tốc độ của Kỳ Lân!
Pho tượng nhỏ ấy, trong mắt tôi chỉ là một quái vật đầu rắn thân người, tỏa ra hơi thở tà dị chẳng kém gì chiếc bình hổ ăn người kia.
Thế mà Kỳ Lân lại có thể lần ra được nguồn gốc của nó. Khi chúng tôi giao pho tượng cho bộ phận tình báo, toàn bộ cỗ máy khổng lồ của Kỳ Lân lập tức vận hành hết công suất.
Hàng chục máy điện báo, máy vô tuyến cùng lúc hoạt động, tiếng “tích… tích…” vang dồn dập như sấm sét giữa không trung.
“Tin từ tuyến miền Bắc, có người từng thấy vật này trong một ngôi chùa, nói rằng đó là một vị hộ pháp thần của Phật giáo.”
“Tiếp tục truy tìm!”
“Tuyến Tây Bắc báo về, xác nhận chất liệu tượng là đất sét đen vùng Cam Túc.”
“Tiếp tục truy tìm!”
Cả tầng trệt náo động, từng nhân viên tình báo chạy đi chạy lại, truyền giấy liên tục. Cảnh tượng ấy khiến tôi liên tưởng đến đội quân tiên phong ra trận, những người chiến đấu không bằng gươm súng, mà bằng trí tuệ và tín hiệu điện báo.
Tiếng “tích tích” ấy chính là vũ khí của họ!
Tôi đứng sững, kinh ngạc nhìn tất cả. Mọi nhận thức của tôi về Kỳ Lân đều bị đảo lộn, có lẽ sức mạnh thật sự của họ, tôi mới chỉ thấy được phần nổi của tảng băng mà thôi.
“Làm sao thế, đứng ngẩn ra làm gì?”
Lão Giang theo thói quen lấy bao t.h.u.ố.c ra, nhưng chưa kịp châm thì Thẩm Tiểu Vũ chẳng biết từ đâu ló đầu ra, vừa gặm táo vừa hỏi tình hình ở ga Bắc Bình.
Lão Giang lười đáp, Thẩm Tiểu Vũ lại tự nói tiếp: “Thấy Kỳ Lân bận rộn thế này là biết chẳng có gì tốt lành rồi!”
Không ai trong chúng tôi có tâm trạng đùa giỡn, Thẩm Tiểu Vũ thấy không khí ngột ngạt liền xua tay, ngậm táo bỏ đi, miệng vẫn lẩm bẩm:
“Dù sao cũng đừng đối xử tệ với tôi nhé, biết đâu chuyến này còn phải nhờ đến tôi đấy!”
Sự xuất hiện của Thẩm Tiểu Vũ khiến bầu không khí bớt căng thẳng hơn. Lão Giang bảo tôi đi nghỉ một lát, vì còn phải mất một thời gian nữa bộ phận tình báo mới có kết quả cuối cùng.
Tôi lại không sao ngủ nổi. Mỗi khi nhắm mắt là trước mắt tôi lại hiện lên cảnh m.á.u me và t.h.i t.h.ể trên chuyến tàu ấy. Thế là tôi bước vào phòng lưu trữ, tiếp tục tra cứu tư liệu, mong tìm ra chút manh mối nào về pho tượng đất nhỏ đó.
Phải nói rằng, năng lực tình báo của Kỳ Lân quả thật đáng kinh ngạc!
Ba tiếng sau, họ giao cho Lão Giang một tờ báo cáo. Hóa ra pho tượng đất mang khí tức tà dị kia không phải là vật ma quỷ gì, mà lại là tượng của một vị thiên thần trong Phật giáo — chỉ là ít người biết đến vì ảnh hưởng của vị thần này không lớn.
Tên của pho tượng là Ma Hô La Già, dịch ra có nghĩa là “Thần Mãng Xà”.
Theo truyền thuyết Phật giáo, ông ta vốn là một con mãng xà khổng lồ, tham ăn và tàn bạo — chỉ cần há miệng là có thể nuốt chửng cả một ngôi làng. Lại thêm tính háo sắc, mỗi năm đều đòi một cô gái trẻ làm tế phẩm, nếu không được thì sẽ nổi giận mà gây họa.
Về sau, được Phật Tổ điểm hóa, hắn có được thân thể con người, nhưng đầu vẫn là đầu rắn. Chỉ khi làm đủ việc thiện, trả hết nghiệp tội của mình, hắn mới có thể hoàn toàn hóa thành người.
Vị Thần Mãng Xà này là một trong tám vị hộ pháp của Phật Tổ. Bộ phận tình báo suy đoán rằng ngoài pho tượng này, có lẽ còn tồn tại bảy pho tượng tương tự khác tượng trưng cho Bát Bộ Thiên Long. Nếu tất cả cơ quan của tám pho tượng được kích hoạt, có khả năng sẽ mở ra một tấm bản đồ kho báu chấn động thế gian!
Còn về cơ quan bí ẩn được giấu trong pho tượng đất này là gì thì họ vẫn chưa thể xác định được.