Khai Phá Cổ Mộ

Chương 62: Đỉnh Hậu Mậu Trấn Quốc.



Chúng tôi nhìn nhau sững sờ, gần như không tin nổi rằng thứ mà bao lâu nay ai cũng mong chờ,  mộ chủ thật sự lại xuất hiện ngay trước mắt.

 

“Đáng giá! Cả đời này coi như đáng giá rồi!”

 

Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️

Bạch Thủy, vị chuyên gia lịch sử vốn điềm tĩnh, giờ đây kích động đến mức suýt nhảy cẫng lên không giấu nổi niềm vui. Ông quay sang nhìn Lâm Kiến Nghiệp, rồi lại nhìn từng người trong đội, đôi mắt đã ươn ướt.

 

Tất cả gian khổ, hiểm nguy, thậm chí cả sự hi sinh suốt chặng đường vừa qua  đến khoảnh khắc này đều trở nên nhỏ bé không đáng kể.

 

Lỗ Bảo Bình khẽ thở dài, giọng nghẹn lại: “Nếu Hắc Mộc mà được thấy cảnh này… thì tốt biết bao.”

 

Cầu Tú Tú vội an ủi:



“Anh ấy sẽ thấy mà, nhất định sẽ thấy. Chúng ta chính là đôi mắt của anh ấy.”

 

Nếu Hắc Mộc biết được chúng tôi thật sự đã tìm thấy  mộ chủ, chắc chắn anh sẽ không bao giờ hối hận vì quyết định xuống mộ năm ấy — dù có phải liều cả mạng, cũng là xứng đáng.

 

Lão Giang sợ trong mộ còn cơ quan, chủ động cùng Hạ Lan Tuyết đi đầu. Nhưng sắc mặt hai người đều rất kém — thương tích vẫn chưa hồi phục.

 

Bạch Thủy và Cầu Tú Tú biết vậy, liền bước lên phụ giúp, không muốn họ tiếp tục liều mình vì mọi người. Còn Trung đội trưởng Trương thì đã nạp đạn lại cho khẩu tiểu liên, sẵn sàng chiến đấu.

 

Ông vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi nỗi đau mất đồng đội, nhưng ánh mắt thì dán chặt vào tòa cung điện đồng xanh trước mặt — ánh sáng phản chiếu khiến cả người ôngnhư bị cuốn vào.

 

Khi chúng tôi cùng đẩy cánh cửa điện ra, mới thật sự hiểu thế nào là tráng lệ. Bên trong là một cung điện chưa từng thấy trong đời — trải qua ngàn năm, mà vẫn giữ nguyên vẻ uy nghi, sang trọng như thuở ban đầu.

 

Dưới chân là sàn lát ngọc trắng, chuẩn xác đến từng milimét. Chung quanh là những cột đồng khắc hoa văn tao thiết cổ xưa, trên trần còn nạm ngọc lam, mã não, ngọc bích, cả những viên trân châu sáng lấp lánh.

 

Bước vào đó, cảm giác như đang lạc giữa bầu trời đầy sao của cửu thiên. Bạch Thủy không kìm được phấn khích, nắm c.h.ặ.t t.a.y Cầu Tú Tú hét lên:



“Thấy chưa? Chúng ta làm được rồi! Cả đời này cuối cùng cũng đặt chân vào Âm Khư thật rồi!”

 

Anh xúc động đến run giọng: “Ta – người Hoa Hạ kiêu hãnh, con cháu Đại Thương hùng mạnh… chỉ một nét bút thôi cũng đủ viết nên cột sống dân tộc!”

 

Anh hoàn toàn đắm chìm trong vẻ đẹp tinh xảo của tòa cung điện đồng. Nó giống như một bức “Thanh Minh Thượng Hà Đồ” phiên bản thương đại lập thể — ở bốn góc đại điện đều có các mô hình thu nhỏ, tái hiện phong tục đời xưa.

 

Trên mỗi mô hình, có những tượng đất nhỏ xíu nhưng sống động như thật, đang miệt mài làm việc.

 

Bạch Thủy liền nhận vai “hướng dẫn viên” bất đắc dĩ, chỉ vào mô hình gần nhất, hào hứng nói:



“Thấy không? Đó chính là xưởng đúc đồng thời Thương! Những người nhỏ kia đang tái hiện toàn bộ quy trình chế tác — từ làm khuôn, đổ đồng, cưa gọt, mài giũa… Chính nhờ kỹ thuật này, họ mới tạo ra những món đồ đồng tinh xảo nhất thời đó. Đây, chính là ‘phương pháp đúc khuôn sáp mất’ huyền thoại!”

 

Phải biết rằng, giới sử học phương Tây luôn cho rằng Ấn Độ mới là nơi đầu tiên phát minh ra kỹ thuật đúc sáp, nhưng nhà Thương của chúng ta lại đã sử dụng nó sớm hơn Ấn Độ tận 2.500 năm, vượt trước họ cả mười thế kỷ.

 

Khi nói đến đây, trên gương mặt của Bạch Thủy tràn đầy niềm kiêu hãnh – một niềm tự hào sâu sắc của người Hoa Hạ.

 

Lỗ Bảo Bình vẫn chưa dám tin, bèn níu lấy tay Lâm Kiến Nghiệp, giọng run run:



“Trời ơi! Mấy thứ mà trước giờ tôi còn không dám mơ thấy, hôm nay lại được tận mắt nhìn thấy hết rồi!”

 

Vừa nói, ông vừa cười vừa đưa tay lau nước mắt – đó là giọt nước mắt của niềm vui tột cùng.

 

Bạch Thủy vỗ vai ông, rồi chỉ về phía góc bên phải, nơi có một mô hình nhỏ xinh: “Còn kia, chắc là xưởng chế tác ngọc.”

 

Theo ghi chép trong giáp cốt văn, vào thời Thương, ngọc và vỏ sò đều là biểu tượng của sự giàu có. Ai sở hữu ngọc thì chẳng khác nào nắm trong tay cả kho báu. Các xưởng chế tác ngọc đều do hoàng thất trực tiếp quản lý, nên ngọc khí thời Âm Thương, dù về kỹ thuật hay số lượng, đều thuộc hàng đỉnh cao suốt năm nghìn năm văn hiến.

 

Hai mô hình còn lại lần lượt là xưởng gốm và xưởng tế tự.

 

Dù gốm của nhà Thương không quá nổi tiếng, nhưng đáng chú ý là người Thương đã biết dùng men tráng, tức là họ đã có thể nung ra lớp men sáng bóng bên ngoài đồ gốm – một bước tiến cực lớn trong nền văn minh đồ gốm của nhân loại. Còn xưởng tế tự thì khỏi phải nói, người Thương “không việc gì không bói”, tế lễ đối với họ quan trọng chẳng khác gì ăn hay ngủ.

 

Bạch Thủy xúc động thốt lên:



“Văn minh Hoa Hạ của chúng ta thật vĩ đại biết bao! Tổ tiên ngàn năm trước, cả đời chỉ làm một việc – và chính sự chuyên tâm ấy đã tạo nên những báu vật quốc gia khiến cả thế giới phải kinh ngạc!”

 

Dù cách nhau hàng ngàn năm, nhưng mỗi khi những bảo vật ấy được khai quật, vẫn khiến người đời nay rơi nước mắt, xúc động như thể đang nghe tiếng gọi từ xa xăm của tổ tiên.

 

Đó chính là sức mạnh của di vật  giúp con người và cổ nhân có thể “đối thoại xuyên thời gian”, để ta cảm nhận được nhịp tim và hơi thở của quá khứ.

 

Thời gian đổi thay, biển hóa nương dâu.

 

Chim Huyền Điểu đã mang đến cho người Thương niềm tin và dựng nên một quốc gia hùng mạnh. Các đời vua Thương vì quê hương mà kiên cường tiến bước, dẫu cuối cùng quốc gia thành tro tàn, Âm Thương chỉ còn lại phế tích – nhưng có những giá trị vẫn bất biến qua ngàn năm.

 

Chúng vẫn đứng đó, giữa di tích Âm Khư, lặng lẽ kể lại câu chuyện của ngày xưa. Cầu Tú Tú xúc động nói:

 



“Đây chính là lý do tôi chọn trở thành một nhà khảo cổ.”

 

Tôi không phải là chuyên gia khảo cổ, nhưng khi nhìn thấy Bạch Thủy, Cầu Tú Tú và mọi người đều rưng rưng nước mắt, tôi cũng hiểu  phát hiện này đối với văn minh Hoa Hạ có ý nghĩa to lớn đến mức nào. Đó hẳn là niềm kiêu hãnh đủ để khiến cả thế giới phải ngước nhìn.

 

Năm nghìn năm truyền thừa không đứt đoạn – trên đời này, ngoài Hoa Hạ, chẳng còn nơi nào khác có được điều đó.

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

 

Bạch Thủy lau nước mắt, cố trấn tĩnh, nhưng khi ánh mắt ông quét sang phía trái – nơi bày kín những đồ tùy táng – ông lập tức kinh hoàng lùi lại mấy bước.

 

“Cái… cái đó là…” Ông run rẩy chỉ tay về phía trước. Ở đó, từ trái sang phải là hàng loạt đồ đồng cổ, mà nổi bật nhất là một chiếc đỉnh khổng lồ đặt ngay đầu hàng.

 

Phía sau nó là quỷ, cô, và tước – những lễ khí quen thuộc thời Thương.

 

Mọi ánh mắt đều dồn về chiếc đỉnh lớn ấy – nó cao hơn một mét, hình vuông, toàn thân xanh thẫm, bốn mặt đều chạm trổ hoa văn taotie dữ tợn.

 

Lão Giang nheo mắt, nét mặt nghiêm lại.

 

Lỗ Bảo Bình vội kêu lớn: “Bạch Thủy! Chẳng lẽ đây là Đỉnh Hậu Mậu Trấn Quốc trong truyền thuyết sao?!”

 

Bạch Thủy gật đầu khẳng định:



“Chắc chắn là nó rồi! Không ngờ trong di tích bí ẩn của Âm Khư này lại ẩn giấu nhiều kỳ tích đến thế! Trong văn hóa thời Thương, đỉnh dùng để nấu thịt, quỷ đựng đồ ăn, cô đựng rượu, tước dùng để uống rượu. Nhưng ngoài chức năng thường nhật, chúng còn tượng trưng cho trật tự lễ nghi – dạy con người dù ăn hay uống cũng phải có ‘lễ’.”

 

“Chiếc đỉnh đặt ở vị trí đầu tiên nghĩa là cao quý nhất, quan trọng nhất – chứng minh rõ ràng thân phận tôn quý của chủ mộ.”

 

Từ trước, trong sách cổ có ghi: sau khi Phụ Hảo qua đời, vua Vũ Đinh đã huy động toàn quốc đúc nên thần khí trấn quốc – Đỉnh Hậu Mậu, nặng hơn tám trăm cân, là đồ đồng lớn nhất và nặng nhất thế giới được biết đến. Nhưng vì suốt bao năm chưa từng được tìm thấy, nhiều học giả cho rằng đỉnh ấy chưa từng tồn tại.

 

Bởi để đúc một lễ khí nặng hơn tám trăm cân, phải cần vô số tấn quặng đồng, lò luyện khổng lồ và kỹ thuật tinh vi đến mức khó tin – ngay cả với công nghệ hiện đại, việc tái tạo cũng rất khó, huống chi là hơn ba ngàn năm trước.

 

Cầu Tú Tú khẽ thở dài:



“Vũ Đinh hẳn đã yêu Phụ Hảo đến tận xương tủy. Ông ấy dốc hết quốc lực chỉ để đúc ra một vật trấn quốc dành cho bà – muốn để lại cho người vợ mình yêu nhất thứ đẹp đẽ nhất trên đời.”

 

Một vị đế vương yêu thương vợ mình đến mức cả đời chỉ nguyện cùng nàng đầu bạc răng long – đó là tình cảm vĩ đại đến nhường nào.

 

Bạch Thủy kích động đến mức gọi lớn tên Lão Giang, giục ông nhanh chóng chụp lại mọi thứ quanh đây.



“Làm ơn đấy, đây đều là báu vật mà tổ tiên để lại cho chúng ta!”



Nói đến đây, ông nghẹn ngào, nước mắt không ngừng rơi.

 

Chúng tôi đưa mắt nhìn sang bên phải – ở đó là một hàng ngọc khí được sắp đặt ngay ngắn. Một chiếc rìu lớn chạm hình rồng to lớn, biểu trưng cho quyền lực tối thượng, được đặt phía trước, còn phía sau là vô số trang sức nữ giới tinh xảo.

 

Như trâm cài tóc bằng ngọc, tương đương với trâm thời sau, đầu trâm chạm hình phượng hoàng – hẳn là món đồ Phụ Hảo yêu thích khi sinh thời.



Rồi đến lược ngọc, hoa tai, cùng nhiều món trang sức khác, tất cả đều được xếp theo thứ tự lễ nghi.

 

Giữa đại điện là một pho tượng phụ nữ bằng bạch ngọc  hoàn toàn liền khối, không hề có vết nối, chắc hẳn được tạc từ một khối ngọc nguyên.

 

Người phụ nữ ấy đẹp đến mức khiến người ta nín thở – da mịn như tuyết, môi hồng như anh đào, mày cong như vẽ, ánh mắt sâu tựa nước thu.



Nhưng trong vẻ mềm mại ấy lại ẩn chứa khí chất anh hùng, như một đóa sen mới nở giữa bùn đất – khiến người ta say mê, nhưng không dám mạo phạm.

 

Bàn tay trái nàng cầm kiếm, tay phải nâng ngọc bội hình rồng.



Không biết do ánh sáng hay do dụng ý của nghệ nhân, mà gương mặt nàng dù cân đối, lại toát lên hai nửa khí chất khác nhau – một bên sát khí, một bên dịu dàng – đúng như hai món bảo vật mà nàng đang cầm trong tay.

 

Người phụ nữ ấy, dĩ nhiên chính là Phụ Hảo  không còn nghi ngờ gì nữa. Khí chất nữ chiến thần toát ra từ toàn thân khiến chúng tôi như được đưa ngược về chiến trường thời Thương cổ. Nhưng khi chỉ nhìn nửa khuôn mặt bên kia, lại thấy nàng dịu dàng như nước, toát lên vẻ đẹp mềm mại, thuần khiết đặc trưng của nữ nhân.

 

Có thể nói, Phụ Hảo là sự kết hợp hoàn hảo giữa uy nghi và dịu dàng – chẳng trách vua Vũ Đinh lại yêu thương bà đến thế.

 

Thế nhưng, Bạch Thủy chợt cau mày nói:



“Có gì đó không đúng… Hình tượng này dường như không giống với mô tả trong sử sách! Vũ khí mà Phụ Hảo luôn dùng rõ ràng là một cây rìu chiến bằng đồng khổng lồ, sao ở đây bà lại…”

 

“Không, cậu nhìn kỹ dưới chân Phụ Hảo đi.” – Lão Giang bỗng cắt lời.

 

Chúng tôi lập tức cúi xuống, và khi nhìn thấy cảnh tượng đó, ai nấy đều rùng mình.



Dưới bệ tượng, vô số bàn tay đen sì đang trồi lên, nắm chặt lấy chân Phụ Hảo. Không phải nâng đỡ, mà là kéo xuống, như thể muốn lôi bà rơi vào vực sâu không đáy.

 

Nếu nhìn kỹ hơn, sẽ thấy thanh kiếm trong tay Phụ Hảo không phải được giơ lên khoe uy lực, mà là đang đ.â.m thẳng xuống, xuyên qua những bàn tay đen ấy.

 

Lỗ Bảo Bình sững sờ:



“Vì sao Phụ Hảo lại xuất hiện trong hình tượng như thế này? Trong đó nhất định có ẩn ý sâu xa!”

 

Bạch Thủy trầm ngâm, ánh mắt lướt qua toàn bộ những lễ khí trong gian mộ, rồi khẽ nói như đang tự hỏi chính mình:



“Chẳng lẽ… vào thời Vũ Đinh, từng có một đoạn lịch sử bị che giấu? Phụ Hảo, một tay cầm ngọc bội tượng trưng cho ‘lễ pháp’, một tay cầm kiếm hướng về những bàn tay đen quái dị ấy… Có phải bà đang tượng trưng cho việc dùng ‘lễ’ mà khai chiến với thần linh và ma quỷ?”

 

Nhưng mà… vào thời Âm Thương, chẳng phải người ta sùng bái quỷ thần đến cực điểm sao?

 

Nếu vậy, bức tượng này… rốt cuộc đang ẩn chứa bí mật khủng khiếp nào?