Khai Phá Cổ Mộ

Chương 119: Tượng Thiên Vương Đạp Quỷ.



 

Mọi người đều giật mình, Tưởng Vạn Lý lập tức nói: “ Giang tiên sinh , rốt cuộc toạ độ đó có ý nghĩa gì?”

Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️

 

Về câu hỏi này, lão Giang không trả lời được. Ông chỉ lạnh giọng nói: “Lý Kinh Lam, lát nữa con dùng Tầm Long Quyết, ta dùng Điểm Huyệt Thuật! Sư trò hợp sức, phá phong thuỷ nơi này.”

 

“Được!” – Tôi hăng m.á.u đáp, trong đầu lập tức hiện ra “Ba mươi sáu phép dời núi lấp biển” mà Tam Nhãn Lý Kinh Lam từng dạy trong mộng, bắt đầu quan sát ngọn đồi cát trước mặt.

 

“Thiên cương ba mươi sáu, địa sát bảy mươi hai, muôn pháp trong đời, khó thoát khỏi Thiên Nhãn khai.”

 

“Vào mộ tìm long mạch, lên núi định huyệt, vượt nước phá cửa, Thiên Nhãn phá Thiên Khuyết.”

 

Dù bây giờ đang ở trong sa mạc, đa số kỹ thuật trộm mộ không thể dùng được, nhưng tôi cứ xem nơi này như một huyệt phong thuỷ mà thôi.

 

Điều tôi phải làm, là tìm ra long mạch của nó. Dù ngươi có trốn kỹ đến đâu, cũng không thoát khỏi con mắt của Lý Kinh Lam ta.

 

Lão Giang bên kia thì đang ráp một cây xẻng Lạc Dương dài chừng bốn, năm mét. Một lúc sau, tôi lờ mờ cảm nhận được phía tây toả ra một luồng kim khí, bèn phấn khích chỉ tay về hướng đó: “Ở kia kìa!”

 

Vị trí đó, trùng hợp chính là chỗ đặt chiếc mũ cao bồi.

 

Lão Giang mang xẻng Lạc Dương đi tới, không chút do dự, cắm mạnh một nhát xuống đất. Khi kéo cả cây xẻng lên, mấy đoạn ống trên cùng vẫn chỉ là cát bình thường. Nhưng đến đoạn cuối cùng, tất cả chúng tôi đều nín thở.

 

Bên trong xuất hiện một lớp đất xanh, chính là loại đất chuyên dùng để phong mộ ở vùng Tây Bắc. Và dưới cùng, dính mấy hạt cát vàng lấp lánh.

 

Những hạt cát ấy vàng óng, nặng trĩu rõ ràng là vàng tinh luyện.

 

Tôi và lão Giang cùng kêu lên: “Dưới này có đấu!”

 

Tưởng Vạn Lý và mấy người khác vội chạy đến hỏi: “Bên dưới là mộ của ai? Chẳng lẽ là tháp xá lợi của Lạc Hoà Thượng?”

 

Điêu Gia hút một hơi t.h.u.ố.c rồi cười nhạt: “Nếu tháp xá lợi của Lạc Hoà Thượng mà dễ tìm thế, thì đâu đến lượt chúng ta? Đừng quên, toạ độ này là do nhóm Warner để lại đó.”

 

Câu nói ấy khiến tất cả bừng tỉnh. Nhưng đến nước này, miếng mồi ngon đã vào tay, ai còn nỡ buông?

 

Bất kể bên dưới là tháp xá lợi của Lạc Hoà Thượng, hay là mộ của vương hầu Tây Vực nào khác chúng tôi nhất định phải xuống xem cho bằng được.

 

Ngay sau đó, lão Giang dùng d.a.o đen vạch một vòng lớn trên cát, ra lệnh cho mọi người dắt lạc đà rời khỏi vòng, tránh cho trọng lượng quá lớn khiến cả ngọn đồi sụp xuống. Bởi dưới đó nếu là mộ, thì chắc chắn là rỗng.

 

Hiện trường chỉ còn lại tôi, lão Giang và Tứ Thánh Sa Môn mà chúng tôi mượn của Điêu Gia, cùng nhìn chằm chằm vào cái hố nhỏ vừa đào ra.

 

Mọi người đều im lặng, chỉ có tiếng gió rít qua khe cát. Lạc đà to tiếng hỏi lão Giang: “Giờ làm gì nữa? Sao còn chưa ra lệnh?”

 

Lão Giang vẫn im lặng, mắt dán vào chiếc đồng hồ trong tay. Đến khi mặt trời hạ xuống nửa chừng, đôi mắt tưởng như đang lim dim của ông đột nhiên mở bừng.

 

“Dùng xẻng xoáy gió!”

 

Chúng tôi mỗi người cầm một cây xẻng xoáy gió, trên đó gắn ba cánh sắt hình tam giác, xoay như chong chóng, cát bị hất tung bốn phía.

 

Tương truyền, xẻng xoáy gió do Lỗ Đại Thánh Nhi một tay trộm mộ lừng danh đầu thời Dân Quốc phát minh. Ông ta vốn lười, thấy dùng xẻng thường đào hố quá chậm, liền nghĩ cách chế tạo công cụ mới. Cuối cùng, với nghề rèn sẵn có, ông đã tạo ra thứ “đồ quỷ” này. Công cụ ấy cực kỳ hữu dụng ở vùng đất tơi xốp trong sa mạc thì đúng là thần khí.

 

Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã đào sâu hơn hai mét, lộ ra một tấm đá xanh. Lão Giang ra hiệu: “Dừng lại.”

 

Rồi dùng đao đen cẩn thận khứa từ giữa tấm đá. Con d.a.o ấy cực bén, còn tấm đá thì đã bị nứt gãy sau bao năm chịu nóng ngày – lạnh đêm, nên rất dễ vỡ.

 

 

Khi tấm đá bị cắt xong, lão Giang lại đục hai lỗ nhỏ hai bên, buộc dây thừng chắc chắn, rồi nhanh nhẹn leo lên khỏi hố. Ông ra lệnh cho chúng tôi mỗi bên hai người nắm dây kéo. Tôi hỏi:

 

“Cần gì phiền thế, chỉ một tấm đá thôi, bọn tôi dùng xẻng đập là vỡ tan rồi.”

 

Lão Giang lập tức vung tay tát nhẹ vào đầu tôi: “Thằng nhóc con, quên ta nói gì rồi à? Mộ này là rỗng bên trong!”

 

“Ta nghi nó được xây trong lòng ngọn đồi, nếu phá đá bừa, cả đám chúng ta sẽ rơi thẳng xuống, tan xác tại chỗ!”

 

Nghe vậy, tôi lập tức rụt cổ, ngoan ngoãn im lặng. Quả nhiên, khi tấm đá được kéo ra, bên dưới hiện ra một cái giếng cổ hình bát giác.

 

Cái giếng đen ngòm, sâu không thấy đáy như một vực c.h.ế.t.

 

Điều kỳ lạ là, quanh miệng giếng còn chạm khắc đầy hoa sen, từng đoá nở quanh miệng giếng, như thể đang siêu độ cho những linh hồn bên dưới. Một luồng cảm giác âm u và quỷ dị chậm rãi lan khắp người tôi…

 

Tôi hỏi lão Giang: “Đây là một ngôi mộ sao?”

 

Lão Giang còn chưa kịp trả lời thì Sa Hồ bên cạnh đã lên tiếng: “Đúng vậy, đây chính là hình thức chôn cất giếng nổi tiếng nhất vùng Tây Bắc! Vì địa chất nơi này đặc biệt, ngày xưa việc chôn cất người c.h.ế.t rất khó khăn. Người dân bình thường thì dùng hình thức ‘thiên táng’ để các nhà sư mang t.h.i t.h.ể ra rìa sa mạc, cho kền kền đến ăn.”

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

 

“Nhưng những vương công quý tộc thì không muốn vậy. Họ mong rằng sau khi c.h.ế.t, linh hồn vẫn được hưởng vinh hoa như lúc sống, nên mới nghĩ ra kiểu chôn cất giếng này.”

 

“Cái gọi là giếng táng, tức là đào một cái giếng khô giữa sa mạc rồi hạ quan tài xuống. Đừng tưởng cái giếng này nhỏ, bên dưới là hầm mộ chính và các phòng tuỳ táng, đủ cả.”

 

Tôi vô thức giơ ngón cái khen Sa Hồ một cái. Tên này ít nói, nhưng hễ mở miệng là chẳng bao giờ nói thừa.

 

Lão Giang b.ắ.n một quả pháo sáng xuống giếng. Trong ánh sáng chói loà như ban ngày, tôi nhìn thấy lòng giếng sâu chừng năm, sáu mét, tường xung quanh vẽ đầy tranh tường rực rỡ sắc màu, phong cách rất giống hang Mạc Cao.

 

Chúng tôi lập tức quyết định xuống dưới.

 

Vì không gian trong giếng quá hẹp, cả đoàn không thể xuống hết một lượt – nếu gặp cơ quan thì chẳng ai kịp chạy. Cuối cùng, quyết định để tôi và lão Giang đi đầu, tiếp đó là Điêu Gia và người phụ nữ tên Khổng Tước trong nhóm “Tứ Thánh Sa Môn”.

 

Còn nhóm Tự Do Cộng Xã ban đầu bị loại ra, nhưng vì giáo sư Tưởng Vạn Lý nằng nặc xin, nên cuối cùng cũng để anh em nhà họ Vũ và Nguyệt Nguyệt đi theo để mở rộng tầm mắt.

 

Khi chúng tôi lần lượt trượt xuống theo dây thừng, tôi mới thấy rõ toàn bộ bức tranh tường trong giếng. Đó là những tiên nữ xinh đẹp khoác váy lụa xanh đỏ, chân trần, bay múa giữa không trung. Mỗi người đều cầm trong tay một loại nhạc cụ khác nhau: có người gảy đàn tỳ bà, có người đ.á.n.h trống nhỏ bên hông, có người thì đang uyển chuyển xoay tròn trong điệu múa.

 

Động tác của họ mềm mại, tao nhã – một chân đứng trụ, thân thể xoay vòng, chính là điệu Hồ huyền vũ đặc trưng của Tây Vực.

 

Theo từng chuyển động, váy áo tung bay, tóc cũng nhẹ nhàng lay động, khiến cả bức tường như tái hiện cảnh giới Tây phương cực lạc.

 

Tôi hỏi lão Giang: “Những người phụ nữ trong tranh này đang làm gì vậy?”

 

Lão Giang đáp: “Đây gọi là ‘Kỹ nhạc đồ’.”

 

Rồi ông dùng móng tay khẽ cạo một lớp màu trên tường, đưa lên miệng thổi nhẹ, nói: “Hẳn là mộ từ thời Thập Lục Quốc. Nói chính xác hơn, là mộ thời Bắc Lương trong thời kỳ Thập Lục Quốc.”

 

Tôi nhìn ông làm thế mà ngưỡng mộ vô cùng, liền nịnh: “Sư phụ, chỉ cần thổi lớp màu thôi mà ngài đã đoán được niên đại và vùng đất? Thật quá lợi hại! Truyền cho đệ tử một chiêu được không?”

 

Lão Giang liếc tôi một cái, cười khẩy: “Có việc thì gọi sư phụ, không có việc thì gọi lão Giang. Muốn học à? Hừ, đi mà học con rắn đuôi chuông ấy đi.”

 

Tôi vừa định cãi lại thì thì anh em nhà họ Vũ bỗng kêu lên: “Dưới chân chúng ta là gì thế?”

 

Lúc nãy tôi mải nhìn tranh tường, giờ mới phát hiện dưới chân phủ một lớp cát vàng óng ánh, mỗi bước đi đều phát ra tiếng rào rạo. Nếu đổi lại là một nhóm trộm mộ khác, chắc hẳn đã lao vào tranh nhau nhặt cho đầy túi.

 

Nhưng chúng tôi đều không tham lam, không ai động đến cát vàng. Ngay cả anh em họ Vũ cũng chỉ ngạc nhiên một lúc, rồi lập tức rút bút ra ghi chép lại toàn bộ những gì nhìn thấy trong mộ.

 

Không hổ là học trò của Tưởng Vạn Lý – tôi thầm tán thưởng. Bên kia, lão Giang đã bắt đầu tìm cửa mộ. Nhưng xung quanh toàn là tiên nữ ca múa, chẳng thấy đâu là cửa ra vào.

 

Tuy nhiên, đã là giếng táng thì chắc chắn phải có lối đi.

 

“Cộc cộc!”

 

“Cộc cộc!”

 

Lão Giang gõ từng bức tường một. Khi gõ đến bức tường phía tây, ông bỗng dừng lại, nở nụ cười: “Linh hồn hướng về Tây phương cực lạc xem ra chủ mộ này là một tín đồ Phật giáo rất sùng đạo.”

 

Nói rồi, ông vung xẻng lên đập mạnh. Bức tường mỏng vỡ vụn, phía sau quả nhiên có không gian khác. Trong ánh đèn pin, hiện ra một hành lang thẳng tắp, cuối hành lang là một bức tượng tô màu vô cùng quái dị.

 

Bức tượng là hình một người đàn ông dữ tợn, dưới chân giẫm lên một con quỷ nhỏ đang cầu xin tha mạng, dáng vẻ hung hăng. Quanh tượng còn treo bốn vật đen sì, trông như những miếng thịt muối mốc treo ngoài sân nhà nông dân. Không rõ đó là vật gì, chỉ cảm thấy rợn người.

 

“Là tượng Thiên Vương đạp quỷ!”

 

Lão Giang chậm rãi rút nửa lưỡi đao đen, một mình bước vào hành lang. Ông bảo chúng tôi đừng theo, vì nghi trong đó có cơ quan. Ông muốn đi trước dò đường để tránh làm hại người khác.

 

Bóng dáng ông dần biến mất trong màn tối. Hành lang chỉ dài khoảng bốn mét, nhưng vì quá cẩn thận nên ông đi gần một phút mới tới giữa. Thấy không có gì bất thường, ông mới thở phào, lẩm bẩm: “Có lẽ ta nghĩ nhiều quá rồi.”

 

Tôi chưa bao giờ thấy lão Giang căng thẳng đến thế. Khi chúng tôi vừa thả lỏng, thì viên gạch dưới chân trái ông bỗng “rắc” một tiếng, sụt xuống.

 

“Cẩn thận!” – tôi hét lớn.

 

May mà lão Giang là Hắc Đao Kỳ Lân, phản ứng nhanh gấp mười lần người thường. Trong khoảnh khắc, cả thân ông bật lên như viên đạn pháo, thoát khỏi khu vực đó.

 

Nhưng lạ thay, viên gạch sụt xuống mà không hề kích hoạt cơ quan nào – như thể chủ mộ đang đùa cợt với chúng tôi.

 

“Chẳng lẽ do lâu năm quá nên cơ quan hỏng rồi?” – tôi tò mò thò đầu nhìn.

 

“Không, cơ quan ở bên này!” giọng Điêu Gia vang lên phía sau.

 

Ngay giây tiếp theo, tôi chợt nhận ra cát vàng dưới chân đang xoay tròn. Chúng tôi bị hút xuống, như rơi vào trong một chiếc máy nghiền khổng lồ…

 

Lảo đảo, gần như không còn đứng vững nổi nữa...