Khai Phá Cổ Mộ

Chương 112: Pháo đài XIV.



 

“Hu hu hu…”

 

“Hu hu hu…”

 

Tiếng khóc mơ hồ từ lòng đất vang lên, rõ ràng mà quái dị, vọng đến từ bốn phương tám hướng, bao vây chặt lấy chúng tôi. Một luồng lạnh buốt từ dưới chân dâng lên, khiến tim gan tôi như cũng run theo từng tiếng nức nở đó.

 

Tôi run run hỏi Lão Giang: “Chuyện… chuyện gì thế này?”

 

Lão Giang vẫn khá bình tĩnh, chậm rãi nói: “Cậu còn nhớ lúc hỏi tôi về ‘ 36 quyết rời núi lấp biển’, tôi đã dạy cậu gì không?”

 

Trong đầu tôi lóe lên một tia sáng: “Thuật Vọng Khí!”

 

Hoàn cảnh ở sa mạc hoàn toàn khác với vùng Trung Nguyên nơi này quá trống trải, không có núi non sông nước để dựa vào, nên những thuật phong thủy thông thường đều vô dụng. Ở đây, chỉ có thể dùng một loại duy nhất Thuật Vọng khí tức là quan sát khí tượng địa mạch để đoán hung cát.

 

Nhìn thấy Ngân Linh co rụt người lại, chui gần như nửa thân vào áo khoác, tôi c.ắ.n răng, chẳng nghĩ gì thêm, giật lấy ống nhòm đeo trên cổ Lão Giang rồi leo lên một gò đất cao hơn hai mét.

 

Tôi điều chỉnh tiêu cự, và ngay lập tức một cảnh tượng kỳ dị hiện ra trước mắt. Trong đêm đen, tuy không nhìn rõ ràng, nhưng ở giữa Thành Ma Quỷ, có những làn khí đen mờ nhạt đang chầm chậm thoát ra từ dưới lòng đất.

 

Nơi nào khí đen dày đặc nhất, tiếng khóc vọng lên cũng càng dồn dập hơn. Tim tôi trầm xuống, vội vàng trượt xuống khỏi gò đất, quay lại báo cho mọi người.

 

Đám người của Tự Do Công Xã lập tức hỏi dồn: “Phát hiện gì không?”

 

Tôi chỉ đáp gọn một câu: “Dưới đất… có thứ gì đó!”

 

Tôi nhìn chằm chằm vào Lão Giang. Ông trầm ngâm một lát, rồi đứng dậy, bước đến chỗ buộc lạc đà, tháo xuống hai chiếc xẻng công binh. Ông ném cho tôi một cái, rồi dẫn tôi đi về phía có khí đen bốc lên, bảo tôi cùng đào.

 

Trước ánh nhìn ngạc nhiên của cả đoàn, chúng tôi bắt đầu đào cát ngay giữa Thành Ma Quỷ.

 

A Di Mộc Hãn thấy cảnh đó thì hoảng hồn, mặt tái mét: “Các người muốn hại c.h.ế.t tôi à! Ma quỷ ở đây đến cả Thánh Allah chúng cũng chẳng nể mặt, huống chi là một tín đồ nhỏ bé như tôi!”

 

Tôi và Lão Giang mặc kệ ông ta lảm nhảm, chỉ tập trung xoay xẻng đào sâu xuống. Đào được chừng hơn một mét lưỡi xẻng bỗng khựng lại.

 

Lão Giang dừng động tác, giọng trầm xuống: “Đổi sang dùng tay bới đi.”

 

“Ai da da, ai da da, các người muốn hại c.h.ế.t tôi rồi, hại c.h.ế.t tôi rồi đó!” A Di Mộc Hãn dậm chân, nói giọng đặc vùng Tây Bắc, vừa la vừa chạy quanh tôi và Lão Giang.

 

Ban đầu tôi tưởng dưới đất chôn thứ gì đó quý báu, vì thuật vọng khí thường dùng để tìm bảo vật. Nhưng thứ chúng tôi nhìn thấy lại là một xác khô đang đứng thẳng!

 

Đúng vậy, đứng thẳng, bị chôn thẳng trong lòng đất!

 

Phải biết rằng xác khô bình thường đều nằm ngang, loại t.h.i t.h.ể dựng đứng như thế này, đây là lần đầu tôi thấy.

 

Đặc biệt là nét mặt của nó thật sự khó miêu tả, chỉ có thể nói là mắt trợn trừng như muốn nứt ra, khuôn mặt đen sạm teo tóp như gốc cây già, vừa quái dị vừa đáng sợ.

 

Cảnh tượng ấy khiến tôi nhớ đến câu chuyện ma mà A Di Mộc Hãn từng kể. Tôi không sợ có lời nguyền, chỉ lo trên xác này có mầm bệnh lây nhiễm, nên tôi và Lão Giang lập tức lùi ra xa.

 

Một cơn gió lạnh thổi tới, cát bụi lại cuộn lên khắp nơi, như có linh tính mà dồn hết vào cái hố chúng tôi vừa đào.

 

Lão Giang nheo mắt, nói nghiêm trọng: “Chôn đứng xác… quỷ lấp hố, nơi này có điều lạ, không nên ở lâu. Lạc đà nghỉ cũng đủ rồi, chúng ta nên rời khỏi Thành Ma Quỷ ngay trong đêm.”

 

A Di Mộc Hãn nghe vậy thì mừng rỡ, vội vàng hô lạc đà chạy đi.

 

Ban ngày bị thiêu trong nắng, ban đêm lại run cầm cập trong giá rét hành trình của chúng tôi chẳng khác nào tra tấn giữa hai cực nóng và lạnh, vừa như sống lại vừa như c.h.ế.t đi.

 

Tôi thấy môi Ngân Linh đã tái nhợt vì lạnh, bèn cởi áo khoác ngoài cho cô ấy. Lần này cô không từ chối. Nguyệt Nguyệt thì hừ lạnh: “Hừ, đúng là đôi cẩu nam nữ.”

 

Đi chừng một canh giờ, tôi thấy hai bên đường xuất hiện những hàng cây hồ dương cong vẹo. Giữa tán cây, phía trước còn có một ngọn tháp canh cô độc.

 

Tôi tò mò hỏi: “Ngoài cửa Ngọc Môn đâu còn người sinh sống, sao lại có tháp canh ở đây?”

 

Tưởng Vạn Lý nhìn qua rồi đáp:

 

“Đây hẳn là di tích từ thời nhà Hán. Khi ấy quân Hán đóng ở đây để chống Hung Nô. Tháp canh này giống như cột mốc biên giới nếu Hung Nô xâm nhập, lính gác sẽ đốt khói sói để báo động về Ngọc Môn Quan.”

 

“Cho nên ngọn tháp này cũng là một lời cảnh cáo với kẻ xâm lược: Phạm vào cường Hán, dù xa cũng phải tru di.”

 

Lời ông khiến ai nấy đều thấy m.á.u nóng dâng trào, giá lạnh dường như cũng giảm đi. Quả không hổ là giáo sư Tưởng, hiểu biết lịch sử sâu rộng nhất trong đoàn.

 

Chúng tôi quyết định lên tháp xem thử, hoặc nếu được thì nghỉ lại qua đêm. A Di Mộc Hãn cũng nói đây là nơi tránh gió rất tốt, nên cả đoàn nhanh chóng tiến đến.

 

Ông ta cột lạc đà vào cây hồ dương bên ngoài. Bên trong, tháp đã đổ nát nghiêng ngả, mặt đất đầy đá vụn và mảnh gỗ. Lão Giang bới thử, lôi ra một mảnh thẻ gỗ vẫn chưa mục hẳn, trên đó khắc mấy chữ mờ nhạt:

 

“Ngày mười tám tháng hai, biên cương khẩn cấp.”

 

Tưởng Vạn Lý giải thích:

 

“Vì vùng Tây Bắc không có tre, nên xưa kia binh lính ghi chép sự kiện trọng đại đều dùng thẻ gỗ. Ngày mười tám tháng hai âm lịch là tiết xuân phân có lẽ khi ấy Hung Nô đã tấn công.”

 

Quả đúng là giáo sư, chỉ thoáng nhìn đã suy luận được nguồn gốc lịch sử, khiến ai nấy đều khâm phục.

 

Nhưng càng đào lên, càng thấy toàn bộ thẻ gỗ đều ghi cùng một điều lần nào cũng là ‘biên cương khẩn cấp’, và đều vào ngày mười tám tháng hai.

 

Đến cả Tưởng Vạn Lý cũng cau mày:

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

 

“Chẳng lẽ Hung Nô bị điên à? Sao năm nào cũng chọn đúng ngày đó để đ.á.n.h Ngọc Môn Quan, hoàn toàn không có chiến lược gì cả.”

 

Lão Giang bỗng lạnh mặt, nêu ra một suy đoán đáng sợ: “Nếu kẻ tấn công không phải Hung Nô thì sao?”

 

Tưởng Vạn Lý hỏi lại: “Không phải Hung Nô thì còn ai?”

 

Lão Giang nhìn chằm chằm tấm thẻ gỗ trong tay, khẽ nói: “Trên này viết rằng, mỗi năm triều Hán đều phái thêm năm trăm quân tới đây để ‘chống lại gió xuân’.”

 

Mọi người đều ngây người — chống lại gió xuân?

 

Gió xuân mà cũng cần chống sao?

 

Một luồng gió lạnh rít qua, tiếng rên khe khẽ như vọng về từ xa xăm. Cả ngọn tháp đổ nát dường như đang cất giấu một bí mật sâu thẳm trong vực tối.

 

Tôi và Lão Giang tiếp tục lục tìm thêm vài thẻ gỗ, đến khi không còn gì nữa mới lên tầng hai của tháp.

 

Cầu thang đá nhiều chỗ đã phong hóa, chỉ cần sơ ý là có thể giẫm trúng hố sâu.

Ai nấy đi rất cẩn thận. Nhưng khi chúng tôi vừa lên đến tầng hai, Ngân Linh bỗng kêu “á” lên một tiếng. Tôi vội rọi đèn pin xuống chân cô, thấy cô nhảy dựng lên, suýt nữa lao khỏi tháp.

 

Nguyệt Nguyệt lấy tay bịt miệng, thét lên kinh hoàng.

 

Ngay dưới chân cô là một bộ xương trắng ngà, trong ánh đèn hiện ra hai hốc mắt sâu hoắm như đang trừng thẳng vào chúng tôi, rợn người khôn tả.

 

Trên vách đá sau bộ xương có khắc ba chữ cái xiêu vẹo: X, L, V.

 

Lão Giang chỉ nhìn thoáng qua đã nói chắc: “Không phải người châu Á, có lẽ là xác của một nhà thám hiểm châu Âu.”

 

Tôi và ông cùng tiến lại gần xem kỹ, phát hiện dưới t.h.i t.h.ể còn khắc thêm những dòng chữ nhỏ ngoằn ngoèo, có vẻ là lời trăn trối trước khi c.h.ế.t vì bị mắc kẹt ở đây.

 

Trong đoàn, Tưởng Vạn Lý là người giỏi tiếng Anh nhất. Ông ta nén sợ bước tới, cúi xuống đọc, rồi mặt mày biến sắc, nét mặt thay đổi liên tục.

 

Một lát sau, ông hít mạnh một hơi lạnh: “Không thể nào…”

 

Ông lùi lại một bước, rồi lại nhào tới, dường như không tin vào mắt mình, muốn đọc kỹ lại lần nữa.

Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️

 

Chốc lát sau, ông buông xuôi, nét mặt tái mét. Lão Giang vội hỏi: “Trên đó viết gì vậy?”

 

Tuởng Vạn Lý nói với chúng tôi:

 

“Người c.h.ế.t tên là George, một nhà thám hiểm người Anh. Ông ta đặt tên cho ngọn tháp này là Pháo đài XIV. Sinh thời, George chuyên nghiên cứu lịch sử vùng Tây Vực, đặc biệt là khu vực Ngọc Môn Quan. Ông cho rằng khi Trung Hoa cổ đại chống lại Hung Nô, họ đồng thời cũng đang ngăn chặn một thứ còn kinh khủng hơn thứ đó được gọi là ‘gió xuân’.”

 

“Mỗi năm, vào ngày 18 tháng Hai, chính là lúc ‘gió xuân’ giáng xuống nhân gian.”

 

George từng cố tình chọn đúng khoảng thời gian ấy để đến ngọn tháp, với hy vọng một phần vạn có thể tìm hiểu xem ‘gió xuân’ thực chất là gì. Nhưng đáng tiếc, ngay khi ông ta nhìn thấy ‘gió xuân’, cái c.h.ế.t cũng âm thầm ập đến…”

 

Câu chuyện đến đây thì dừng lại.

 

Không ai biết George đã chứng kiến điều gì, cũng chẳng rõ ‘gió xuân’ rốt cuộc là thứ gì chỉ cảm nhận được nỗi sợ hãi dày đặc đang dần bao trùm lên chúng tôi.

 

Khi cả nhóm vẫn còn đang định tiếp tục tìm kiếm quanh ngọn tháp, Điêu gia bỗng buông một câu: “Hôm nay là ngày bao nhiêu rồi?”

 

Tôi, Lão Giang và Tưởng Vạn Lý cùng nhìn xuống đồng hồ. Một lát sau, ai nấy đều biến sắc, gần như muốn khóc:

 

“Còn bảy phút nữa là nửa đêm mười tám tháng Hai.”

 

Không khí đông cứng lại. Không ai dám thở mạnh. Lúc này, Điêu gia cũng không giữ vẻ điềm tĩnh trước mặt Nguyệt Nguyệt nữa, ông ta quát lớn với Ô Nha: “Thả chim ưng ra!”

 

Ngay sau đó, Ô Nha mở cửa lồng, một đen một trắng — hai con đại bàng lao vụt lên trời như hai mũi tên, sải cánh giữa màn đêm, mang theo dáng vẻ kiêu hãnh thống trị không trung.

 

Tôi tò mò hỏi: “Chúng bay ra rồi, liệu có quay lại được không?”

 

Sa Hồ đáp lạnh lùng:

 

“Không những quay lại được, mà còn có thể dò xét tình hình trong phạm vi hàng trăm dặm. Nếu không có chim ưng, làm sao bọn ta có thể sống sót giữa sa mạc Tây Bắc này?”

 

Hai con ưng dần nhỏ lại trong tầm mắt, cuối cùng chỉ còn là hai chấm đen li ti, lượn vòng giữa bầu trời mịt mù cát bụi.

 

Thỉnh thoảng, chúng phát ra những tiếng kêu sắc nhọn, dường như đang cảnh giác tìm kiếm thứ gì đó. Không biết qua bao lâu, đôi ưng cuối cùng cũng quay về. Điêu gia giơ tay đón, định để chúng đậu lên cánh tay mình nhưng lạ thay, hai con ưng không hề đáp xuống. Chúng run rẩy, mất hồn mất vía, rồi chui thẳng vào lại trong lồng sắt.

 

Chỉ nghe tiếng kêu khẽ của Tiểu Hắc và Tiểu Bạch, sắc mặt Điêu gia lập tức tái nhợt, chưa bao giờ nghiêm trọng đến vậy.

 

Ông vội vàng lao xuống khỏi tháp, kéo luôn cả Nguyệt Nguyệt theo. Nguyệt Nguyệt vùng vằng, còn Lạc Đà thì giọng run run, gần như sắp khóc:

 

“Tiểu thư, đừng làm loạn nữa! Giờ không phải lúc đâu!”

 

Tôi nghe ra trong giọng anh ta có điều không lành, vội đuổi theo, hỏi Điêu gia rốt cuộc có chuyện gì.

 

Ông vừa đi vừa đáp:

 

“Nơi này là tử địa. Tiểu Hắc và Tiểu Bạch nói rằng phía trước có vô số thứ kinh khủng đang kéo đến. Phải mau rời khỏi đây!”

 

Tôi hỏi: “Đi đâu bây giờ?”

 

Điêu gia ngẩng đầu nhìn trời, rồi quát lên: “Quay lại Thành. Ma Quỷ!”