“Lão gia, phu nhân, xin đừng trách đại tiểu thư. Con từng dẫn Bảo Châu đến nhà họ Tô, hôm ấy không gặp được người. Nghe nói tiểu thư vừa sinh con, đang ở cữ, nhà họ Tô sợ làm cô kinh động nên không dám nói thật. Bên thông gia sai người đến tìm con, dặn rằng nếu thật lòng nghĩ cho tiểu thư, thì tuyệt đối không được mang Bảo Châu đến đó nữa.”
“Vài hôm sau, nhà họ Tô dọn về Đông Đô. Dù tiểu thư có muốn gặp mọi người, thì đường xa núi cao, cô ấy còn bận con nhỏ, làm sao về được?”
Còn có điều ta không dám nói ra — đại tiểu thư vừa hay tin về chuyện nhà họ Ôn đã ngất lịm hai lần, cô gia nhân lúc cô mê man không tỉnh, liền lập tức đưa cô ấy lên thuyền rời đi.
Suy cho cùng cũng là phàm nhân, trong thời buổi như thế, lo thân chẳng có gì sai. Nói được vài câu thì đã hết giờ, ta phải đưa Bảo Châu ra ngoài, cô bé vừa đi vừa khóc, muốn mang cả nhà cùng theo. Ta dỗ mãi mới đưa được cô rời đi, cô vẫn còn sụt sịt, hỏi sao lại không thấy đại ca.
Khắp phủ đều đồn về đại lang quân, rằng chàng không chỉ tuấn tú như ngọc như lan, mà từ lúc vừa đội mũ trưởng thành đã liên tiếp đỗ tam nguyên, là học trò đắc ý nhất của Tống các lão, tương lai ắt làm quan lớn. Những lời ấy ta không rõ thật giả, nhưng nhan sắc thì quả là hơn người, dẫu sao mẫu thân chàng vốn đã là tuyệt sắc giai nhân. Vậy mà người như thế, nay lại không rõ sống chết, mất tăm mất tích.
Ôn lão gia im lặng không nói gì, ta biết có hỏi cũng vô ích, đành dẫn Bảo Châu về lại nơi trọ.
Bọn ta thuê nhà chung với người khác trong một tiểu viện ở Đông Nhai. Ta và Bảo Châu đến sớm, chiếm được hai gian phòng phía đông: một để ở, một làm bếp. Ba gian phía tây là của một gia đình bốn người. Người chồng họ Hà, là một người bán hàng rong, vợ hắn ở nhà chăm con.
Hà lang thân hình cao lớn, miệng lưỡi lanh lợi. Hà nương tử ít nói nhưng là người tốt, lại khéo tay, rảnh rỗi liền thêu khăn tay, túi gấm, chồng mang ra phố bán. Ta may quần áo, làm giày dép thì tạm được, còn thêu thùa thì chịu, nên lúc rảnh thường cho Bảo Châu học cùng Hà nương tử. Bảo Châu tính tình trầm, học đâu ra đấy. Còn phần cá tôm thịt dư sau buổi bán, ta thường để lại cho cô cùng hai đứa nhỏ nhà họ ăn.
Hôm ấy không khác gì thường ngày, chỉ là sông Biện đóng băng, sinh kế của ta buộc phải tạm dừng. Vài khách quen thèm món ăn ta nấu, ta bèn làm tại nhà rồi mang đến tận nơi.
Dùng bữa xong về, Bảo Châu đã lơ mơ muốn ngủ, ta chờ cô bé ngủ rồi lấy đế giày, ngồi dưới đèn dầu khâu vá.
Lò sưởi dùng củi, khói lớn nên ta hé cửa một khe nhỏ. Trước khi ngủ sẽ dập lửa, đợi gió thông rồi mới dám đóng lại. Ta đã mười lăm, đến đâu cũng được xem là đại cô nương.
Làm ăn trên sông Biện không hề dễ dàng như tưởng tượng, có lúc còn có người quấy rối, huống hồ ta chỉ là cô gái trẻ, bên cạnh lại có em gái. Nhưng trên sông có luật riêng, nộp đủ phí bảo kê thì tự nhiên có người trông nom. Ta không sợ vất vả, chỉ sợ gây chuyện.
Khi nghe tiếng gõ cửa, ta thoáng giật mình. Ở Biện Kinh này, ta và Bảo Châu chỉ biết nương cậy vào nhau, ai lại đến tìm vào lúc trời đã tối mịt thế này?
“Ai đó?” Ta cất giọng hỏi.
“Ta họ Ôn.” Người ngoài cửa trả lời, giọng trầm thấp, nghe vừa lạnh vừa dễ nghe.
Họ Ôn?
Ta chưa kịp nghĩ gì nhiều, liền mặc áo bông bước xuống giường. Người kia lách người vào, ta nhanh tay đóng cửa lại.
Người ấy quay lưng, đứng bên giường nhìn Bảo Châu. Nhà nhỏ, trước giường chỉ có một tấm rèm ngăn cách, trong là phòng ngủ, ngoài là nơi tiếp khách. Lúc này rèm đã bị người đó vén lên, cảnh trong phòng hiện rõ mồn một.
Người đó có vóc dáng rất cao, khoác áo choàng đen, tóc dùng đai ngọc buộc gọn. Ta lờ mờ đoán ra người đó là ai, nhưng không dám hỏi, chỉ lặng lẽ chờ người đó nhìn đủ.
Ta nhóm củi, đun nước, rót trà mời khách. Trà này là loại dùng đãi khách trên thuyền, không quý nhưng cũng chẳng tệ.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
Khi người đó kéo rèm bước ra, đèn dầu tuy mờ nhưng ta vẫn nhìn rõ.
Người trong phủ từng nói đại công tử tuấn tú như ngọc như lan, ta trước giờ chẳng hiểu “ngọc lan” là gì, nhưng nay gặp rồi, mới thật sự hiểu.
Chàng giống phu nhân, chỉ là lông mày rậm hơn, dài hơn, mắt đào hoa trời sinh, không cười cũng mang vẻ phong lưu đa tình. Mũi cao, môi không mỏng, cằm góc cạnh rõ ràng. Dưới môi có một nốt ruồi nhỏ, người lại toát ra vẻ lạnh lùng cao quý.
Vừa lạnh vừa đẹp, từ “mỹ nam” nghe thật nông cạn khi nói về chàng. Quan trọng nhất là làn da chàng rất trắng.
Chàng ta không cởi áo choàng, ngồi xuống ghế, nâng chén trà ta rót. Đôi tay chàng cũng đẹp lạ lùng, quả thực là người không có lấy một điểm chê.
Mắt chàng đen sâu, khi nhìn khiến lòng người chộn rộn không yên. Nhìn cách ăn mặc, tuyệt nhiên không giống kẻ thất thế. Áo trắng bên trong áo choàng là gấm mây thượng hạng, đúng nghĩa “một tấc vải, một tấc vàng”.
Chàng ta đã không sa cơ, vì sao lại không cứu nhà họ Ôn? Chuyện triều đình hiểm ác, ta không dám hỏi, cũng chẳng muốn hỏi. Ta chỉ đứng chờ chàng ta mở lời.
“Không hấp tấp, không sợ hãi, xem ra cũng có đôi phần gan dạ, chẳng trách có thể bảo vệ được Cẩm Nương.” Chàng ta nói giọng trầm mà lạnh. Ta không dám nhìn chàng, chỉ cúi đầu không đáp.
“Vật này giao cho cô. Ngày mai tìm cách ra khỏi thành, mang nó đến chùa Kê Minh, giao tận tay trụ trì Pháp Huệ. Việc này hệ trọng, nhất định phải thận trọng. Nếu không phải đường cùng, ta cũng chẳng tìm đến cô.”
Ta vốn không định nhận, nhưng nghe giọng chàng mang theo vẻ gấp gáp bất đắc dĩ, rốt cuộc cắn răng nhận lấy.
Vật ấy được bọc vải, hình như là quyển sách không dày lắm. Khi đặt vào tay ta vẫn còn mang theo nhiệt độ từ người chàng.
“Lang quân, xin người bảo trọng. Người nhà họ Ôn còn đang mong ngóng ngài đấy.”
Chàng đứng dậy định rời đi, ta định bụng không nói, nhưng vì Bảo Châu, vì nhà họ Ôn, mới cất lời như thế.
Chàng gật đầu, rồi bất chợt nở nụ cười, sáng rực như nắng gắt chiếu thẳng vào mắt.
“Cô không sợ nhà họ Ôn và ta đều là kẻ xấu sao?”
“Ta chỉ biết nhà họ Ôn đã đối xử tốt với ta, thế là đủ rồi.”
Nếu không có nhà họ Ôn, ta cũng không biết mình hôm nay sẽ ra sao.
Chàng lại gật đầu, rồi thoắt một cái đã biến mất trong đêm tối.
Chùa Kê Minh vốn không phải nơi có thể tùy tiện ra vào, mỗi tháng chỉ mở cửa vào mùng Một và rằm. Mà ngày mai chẳng phải mùng Một cũng chẳng phải rằm, chỉ vào được thôi đã là chuyện khó, huống gì còn muốn gặp được trụ trì.
Hôm sau, trời còn chưa sáng rõ, ta đã gửi Bảo Châu cho Hà nương tử, rồi một mình lên núi Kê Minh. Gọi là “núi” nhưng thực ra không dốc lắm, với người quen làm việc nặng như ta thì chẳng khó gì.
Đến nơi, cổng chùa đóng chặt. Từ bên trong vọng ra tiếng tụng kinh và tiếng mõ đều đều…