Thế lực của Liễu gia ở vùng Phủ Kiến Ninh quả thực rất lớn, gọi là “đệ nhất phú hộ Kiến Ninh” cũng chẳng ngoa.
Trên con phố phồn hoa nhất phủ thành, chín phần trong mười cửa hiệu đều là sản nghiệp của Liễu gia.
Trong Phủ Kiến Ninh, Liễu gia có thể nói là một tay che trời.
Nơi đây quả thật là “núi cao, hoàng đế xa”; dân chúng tuy dám ngấm ngầm chửi vua, mắng quan tham, nhưng lại chẳng ai dám nói nửa lời bất kính với người Liễu gia.
Ánh mắt Tống Cẩm dừng lại trên một dãy phố.
Liễu Kế năm ngoái từng sai tùy tùng đi sưu tầm y thư, vốn dĩ là để gửi cho vị hôn thê đang ở Kinh sư.
Tống Cẩm ngẩng đầu nhìn Ngao chưởng quỹ:
“Tin tức này tra ra không khó, vì sao khi trước không gửi đến Kinh thành?”
“Là vì… tra ra chậm hơn một ngày.”
Ngao chưởng quỹ len lén lau mồ hôi lạnh.
Vị Tống công tử này tuy tuổi không lớn, lại chẳng nói năng quá lời, song khí thế khiến người ta chẳng dám khinh nhờn. Ngao chưởng quỹ còn liếc sang lão Hoắc một cái.
Người này là người theo hầu công tử, mà đã có thể đi cùng công tử lần này, thân phận tất nhiên không hề tầm thường.
Thái độ của Ngao chưởng quỹ càng thêm cung kính.
Tống Cẩm hạ lệnh:
“Bảo người hẹn kẻ đã thay Liễu Kế đi sưu tầm y thư ra gặp ta, ta có đôi điều muốn hỏi tận mặt. Làm việc phải thật kín đáo, tốt nhất là không để lại dấu vết.”
“Thuộc hạ lập tức đi làm.”
Ngao chưởng quỹ vội vã lui ra, như thể chỉ sợ Tống Cẩm bắt lỗi vì hắn làm việc không chu đáo.
“Tối qua ta uống rượu với hắn, trò chuyện cũng không ít, nên biết được vài chuyện.”
Tống Cẩm khẽ gật: “Hoắc thúc nói thử xem.”
“Ở vùng Phủ Kiến Ninh này, Liễu gia thế lực quá mạnh, Thuận An thương hành chỉ có thể phát triển cầm chừng. Dĩ nhiên, nói là bị Liễu gia chèn ép cũng chỉ là cái cớ, trong đó phần nhiều vẫn là vì năng lực của lão Ngao không đủ.”
Lão Hoắc chẳng phải chỉ uống rượu.
Trong lúc rượu vào lời ra, vừa hàn huyên vừa dò la, khi đối phương say lại hỏi sâu thêm mấy câu, để xác nhận một việc — liệu Ngao chưởng quỹ có phản bội chủ tử hay không.
May mắn cho hắn là không.
Nếu không, e rằng đêm qua đã bị ném xác xuống sông rồi.
Tống Cẩm lại hỏi:
“Vậy Thuận An ở đây dựa vào gì mà kiếm tiền?”
“Chủ yếu là thu mua đặc sản địa phương rồi chở đến các châu phủ khác bán kiếm lời. Còn muốn mang hàng nơi khác đến Kiến Ninh bán thì khó lắm, trừ khi là vật quý hiếm, bằng không chỉ có thể cầm cự qua ngày.”
Thấy Tống Cẩm tỏ vẻ hứng thú, lão Hoắc liền bắt đầu kể tường tận, chẳng ngại chê bai Ngao chưởng quỹ.
Nếu biết thu mua đúng hàng hóa địa phương, thật ra cũng có thể phát tài lớn.
Tỷ như Kiến Ninh thông tâm bạch liên, hạt sen trắng muốt, tròn đầy, dẻo mà không nát, vị ngọt thanh và tinh khiết, được tôn xưng là “liên trung chi phẩm” – bảo vật tiến cống từ xưa.
Ngoài ra còn có hoàng hoa lê, Khê nguyên minh trúc, cùng trái khỉ (tức di hầu đào, nay gọi là quả kiwi), đem đến châu phủ khác đều bán đắt như tôm tươi.
Khổ nỗi, những sản vật ấy phần lớn bị Liễu gia độc quyền thu mua.
protected text
Trước kia công tử từng bảo hắn mua đất, mua trang trại để tự mình trồng trọt, vậy mà mấy năm trôi qua vẫn chưa thấy kết quả gì.
Không trách được lão Hoắc nói hắn năng lực tầm thường.
Tống Cẩm nghe xong cũng đồng tình, nghĩ thầm: ở nơi giàu có trù phú thế này mà vẫn làm ăn thảm hại như vậy, nếu đổi lại là y kinh doanh…
“Phải chăng là Liễu gia cố ý chèn ép thương nhân ngoại lai?” — Tống Cẩm chợt hỏi, ánh mắt thoáng sắc lạnh.
Bởi thường thì, thương hộ bản địa vốn chẳng bao giờ hoan nghênh người ngoài đến tranh miếng ăn với mình.
Thuận An thương hành đặt chân đến Phủ Kiến Ninh, tất nhiên khó tránh bị chèn ép.
Sở dĩ vẫn có thể đứng vững là nhờ nguồn hàng phong phú, chủ yếu kinh doanh văn phòng tứ bảo. Ngoài bốn món trân phẩm ấy ra, những mặt hàng khác, trừ đi chi phí vận chuyển, lợi nhuận chẳng đáng là bao.
Lão Hoắc cùng Tống Cẩm hàn huyên về việc buôn bán của Thuận An.
Dịch và biên tập bởi Rừng Truyện!!!
Nghe nàng nói mạch lạc rõ ràng, đâu ra đó, lão không khỏi kinh ngạc nhìn nàng — hóa ra vị phu nhân trẻ tuổi này không chỉ có khí độ, mà còn thật sự có bản lĩnh thương gia.
Trước kia, lão Hoắc chưa từng có cơ hội tiếp xúc với Tống Cẩm; chỉ vì Tần Trì biết lão từng xuôi ngược khắp nơi, lại tinh thông võ nghệ, nên mới đặc biệt phái theo để hộ tống Tống Cẩm đến Kiến Ninh chuyến này.
Bên phía Ngao chưởng quỹ, lúc này đã bắt đầu sắp xếp nhân thủ.
Dù thế nào, hắn cũng phải khiến việc này trọn vẹn, nếu không e rằng công tử sẽ đổi người khác.
…
Chiều hôm sau.
Khi Tống Cẩm vừa dùng xong bữa tối, Ngao chưởng quỹ đích thân đến báo rằng việc đã hoàn tất.
Tống Cẩm lập tức đặt đũa xuống, về sương phòng thay sang y phục tiểu sai để tiện hành động.
Lần này nàng không muốn gây chú ý — giả làm tiểu đồng của Ngao chưởng quỹ, còn những người bảo vệ nàng thì ẩn mình trong bóng tối.
Bề ngoài, chỉ có nàng cùng Ngao chưởng quỹ đi gặp mục tiêu.
… Kỹ viện?!
Khi Tống Cẩm đường hoàng bước qua cổng lớn, theo sau Ngao chưởng quỹ tiến vào kỹ viện, ba người đi theo ở xa — lão Hoắc, Tần Thất và Tần Bát — đều trợn tròn mắt, mí mắt giật liên hồi.
Phu nhân đến Kiến Ninh mới có mấy hôm… sao đã vào kỹ viện rồi?!
Nếu công tử biết chuyện này — ba người họ còn sống nổi không?!
Lão Hoắc nghiến răng, trừng về phía Ngao chưởng quỹ, hầm hầm nói nhỏ:
“Cái đồ khốn, chỗ nào chẳng chọn, lại chọn ngay cái nơi ô uế này!”
Tần Bát liên tục gật đầu:
“Đúng là cái đồ chết tiệt, hại chúng ta toi đời rồi!”
Tần Thất mặt lạnh như băng, chẳng nói lời nào, song ai cũng nhìn ra được lửa giận trong mắt.
Người oan ức nhất trong chuyện này, lại chính là Ngao chưởng quỹ.
Bởi trong số họ, chỉ có hắn là không biết Tống Cẩm thật ra là nữ tử, hơn nữa còn là chủ mẫu.
Hắn vẫn tưởng “Tống công tử” chỉ là một thiếu niên thân hình mảnh khảnh, dáng vẻ hơi non nớt mà thôi.
Phải nói, Tống Cẩm quả thật cải trang rất khéo.
…
Đêm xuống, đèn hoa rực rỡ.
Tống Cẩm bước qua cửa kỹ viện, ánh mắt đảo khắp đại sảnh.
Trong tiếng ca hát đàn sáo, yên chi phấn phấn, các cô nương khoác mịch li, mặc áo mỏng thêu hoa, cười nói lanh lảnh, tựa châu ngọc rơi trên khay ngọc, quyến rũ mà mê hoặc lòng người.
Ngao chưởng quỹ không dừng lại, cứ thế dẫn nàng đi sâu vào trong.
Mùi phấn son nồng nặc khiến Tống Cẩm khẽ nhíu mày, phải nâng tay áo che mũi, cúi đầu lặng lẽ đi theo.
Vòng qua hành lang uốn lượn, ánh đèn lồng đỏ hắt bóng lung linh lên các gác lầu, tiểu viện, tạo nên một khung cảnh nửa thực nửa mộng.
Tiếng đàn hòa với tiếng cười nói của nữ tử vang khắp nơi, mờ ảo giữa màn đêm.
Tống Cẩm liếc qua những cánh cửa khép hờ, qua tấm sa mỏng, chỉ thấy cảnh rượu nồng đèn đỏ, hoa rơi trăng rụng.
Cuối cùng, họ đến một nhã gian.
Ngao chưởng quỹ lập tức nở nụ cười, cúi người chào một nam tử cao gầy, độ chừng hai mươi tuổi:
“Ôi chao, chẳng phải Liễu Nhị ca sao! Cứ tưởng hôm nay Phạm lão bản chỉ mời mình ta, không ngờ còn có huynh ở đây. Vừa nãy ra cửa nghe tiếng chim khách kêu, giờ mới biết là điềm lành ứng tại nơi này rồi.”
Nhờ Ngao chưởng quỹ che chắn khéo léo, Tống Cẩm đi theo sau mà không ai để ý.
Hai người xã giao vài câu, rồi Ngao chưởng quỹ cười nói:
“Ta kính Liễu Nhị ca một ly!”
Nói đoạn, hắn khẽ liếc về phía Tống Cẩm, ra hiệu.
Tống Cẩm hiểu ý, cúi đầu tiến lên rót rượu cho đối phương.
Vốn việc ấy do kỹ nữ đảm nhận, nhưng mấy cô nương vừa bước đến, thấy ánh mắt ra hiệu của Ngao chưởng quỹ, liền mỉm cười né tránh, coi như không thấy gì.
Tống Cẩm lặng lẽ rót rượu.
Trong khi Ngao chưởng quỹ trò chuyện rôm rả, cố tình thu hút sự chú ý của Liễu Nhị ca, Tống Cẩm nhân cơ hội nhẹ tay đem thứ thuốc từng dùng cho Lưu Kiếm Phương — lặng lẽ hòa vào ly rượu trước mặt hắn.