Gả Ngọc Lang

Chương 33:



Tạ Ngọc khác thường như vậy, không chỉ người bên cạnh hắn nhận ra, mà ngay cả một người chậm hiểu như Thẩm Xuân cũng cảm thấy có gì đó không đúng.


 

Dạo gần đây, bất kể là nắng hay mưa hắn cũng trở về đúng giờ. Chuyện này không nói làm gì, nhưng ngay cả những quy củ trước đây hắn đặt ra cũng lần lượt bị phá bỏ một cách vô tình hoặc cố ý. Trước kia, nàng không thể tùy ý vào ngoại viện, nếu muốn tìm hắn, nhất định phải sai người thông báo trước. Thế mà gần đây, hắn lại thường xuyên gọi nàng ra ngoại viện ngồi cùng, hai người vừa uống trà vừa đánh cờ, lúc hắn bận xử lý công vụ, nàng sẽ ngồi bên cạnh làm bài tập.


 

Hôm nay, phu tử giao rất nhiều bài tập, Thẩm Xuân miệt mài suốt nửa canh giờ vẫn chưa xong, đến mức mỏi nhừ cả lưng và eo.


 

Phải nói thêm một câu, Tạ gia xưa nay xem những chiếc ghế thấp của người Hồ là vật ngoại lai, trong nhà từ trên xuống dưới đều đã quen với tư thế quỳ ngồi, vì vậy cũng không chuẩn bị ghế để nghỉ ngơi.


 

Mới đầu quỳ một lát thì không sao, nhưng ngồi lâu, nàng cảm thấy hai chân như mất hết cảm giác.


 

Thẩm Xuân len lén liếc nhìn Tạ Ngọc, thấy hắn đang chăm chú đọc công văn, bèn lặng lẽ dạng hai chân ra một chút, dồn trọng tâm ra phía sau, ngồi lên chân mình. Sau đó, nàng kéo lại váy che đi động tác của mình, lại lấm lét nhìn hắn lần nữa.


 

Nhưng cứ như thể hắn có thêm một đôi mắt vậy, dù đầu không hề ngẩng lên, hắn vẫn nói: “Ngồi dạng chân như vậy, nàng muốn để mẫu thân trách phạt sao?”


 

Thẩm Xuân nhăn nhó mặt mày: “Ngồi lâu quá, chân ta tê hết rồi…” Nàng bám lấy mép bàn, đáng thương nhỏ giọng xin xỏ: “Ta thật sự không quen quỳ ngồi, có thể mua một chiếc ghế nhỏ đặt ở đây không?”


 

Trước kia, nàng tuyệt đối không dám nói chuyện với hắn như thế. Nhưng dạo gần đây, nàng mơ hồ nhận ra sự dung túng của Tạ Ngọc dành cho mình. Thậm chí nàng còn có cảm giác… hắn dường như rất thích nghe nàng đòi hỏi.


 

Không ngờ, Tạ Ngọc lại từ chối thẳng thừng: “Dĩ nhiên là không được.”


 

Thấy nàng bĩu môi, hắn dịu giọng giải thích: “Mẫu thân vốn không thích những vật ngoại lai này. Đừng nói là bậc vãn bối như ta, trước đây phụ thân từng mua một chiếc ghế Hồ, người lập tức sai người khiêng ra ngoài đốt đi.”


 

Thẩm Xuân xưa nay luôn e sợ vị mẫu thân uy nghiêm của mình, nên khi nghe vậy đã lập tức lộ vẻ lúng túng, không dám nói thêm lời nào.


 

Tạ Ngọc thấy nàng khổ sở đến mức nhăn nhó cả mặt mày, trầm ngâm một lát rồi nói: “Nếu thật sự không chịu nổi khi quỳ ngồi…”


 

Hắn ngừng một chút, sau đó nghiêm túc đề nghị: “Có thể ngồi trong lòng ta.”


 

Thẩm Xuân sững sờ, cứ tưởng hắn đang đùa. Ai ngờ ngay sau đó, hắn đã vươn tay ôm lấy nàng, nhẹ nhàng kéo vào lòng.


 

Cúi mắt nhìn nàng, hắn hỏi: “Tê chỗ nào?”


 

Thẩm Xuân chần chừ duỗi chân trái ra: “Chỗ bắp chân này này.”


 

Quả nhiên, Tạ Ngọc liền nắm lấy cổ chân nàng, vén một đoạn ống quần lên, dùng đầu ngón tay nhẹ nhàng ấn vào huyệt vị giúp nàng. Nhưng, đầu ngón tay hắn lướt qua một vùng da gồ ghề, cúi xuống nhìn kỹ, mới nhận ra đó là một vết sẹo cũ mờ nhạt. Vì đã nhiều năm nên màu sắc rất nhạt, không dễ nhận ra.


 

Nhưng vết sẹo này có hình răng cưa, chạy vòng quanh bắp chân nàng, trông vô cùng lạ lẫm. Chỉ cần tưởng tượng cũng biết lúc bị thương chắc chắn rất đau đớn.


 

Hắn khẽ cau mày: “Chân trái nàng từng bị thương sao?”


 

Tim Thẩm Xuân đập dồn dập, nàng ngẩng đầu nhìn hắn thật nhanh: “Hồi nhỏ ta vào núi hái thuốc, không cẩn thận giẫm phải bẫy thú của thợ săn.”


 

Tạ Ngọc nhíu mày: “Bẫy thú của thợ săn thường rất khó gỡ ra, có người giúp nàng à?”


 

Thẩm Xuân nghe thấy tim mình đập mạnh hơn, nàng vội gật đầu: “Có một người tốt bụng cứu ta.”


 

Sắc mặt Tạ Ngọc dịu xuống đôi chút: “Vậy nàng đã báo đáp hắn thế nào?”


 

Thẩm Xuân nhìn chằm chằm hắn, không chớp mắt: “Ta thêu tặng hắn một cái túi thơm, dặn rằng đợi ta lớn lên, hãy đến tìm ta.”


 

Tay Tạ Ngọc thoáng khựng lại, ánh mắt chợt trở nên sâu thẳm.


 

Nếu hắn đoán không lầm, ân nhân cứu mạng thê tử hẳn là một nam tử. Theo lý, khi biết thê tử được cứu, người làm phu quân như hắn đương nhiên phải mừng vì nàng tai qua nạn khỏi. Nhưng ngoài nỗi vui mừng và sợ hãi sau cơn nguy nan, tâm trạng hắn lại có đôi phần vi diệu.


 

Nàng đã tặng người kia một túi thơm, còn hẹn ước sau khi trưởng thành sẽ gặp lại. Chẳng phải… là lấy thân báo đáp hay sao?


 

Nếu là trước đây, Tạ Ngọc sẽ không vì chuyện này mà khó chịu. Nhưng dạo gần đây, không biết vì sao mà hễ liên quan đến thê tử, tâm tư hắn lại xao động, lòng chẳng thể yên. Thậm lúc đang xử lý công vụ, hắn cũng vô thức nghĩ đến nàng.


 

Ngay sau đó, Tạ Ngọc bất giác dâng lên nỗi hổ thẹn, thầm trách bản thân quá mức hẹp hòi. Hắn hạ giọng, mặt dịu lại: “Nếu sau này còn có duyên gặp lại, chúng ta nhất định phải đền ơn vị ân nhân kia thật tử tế.” Hắn cố ý nhấn mạnh hai chữ “chúng ta”.


 

Đến lượt Thẩm Xuân thất vọng.


 

Nàng đã nói rõ ràng đến vậy, hắn vẫn chưa nhận ra sao? Từng lời từng chữ hắn nói ra cứ như đang nhắc đến một người xa lạ.


 

Trong lòng nàng dần dấy lên một tia nghi ngờ, không nhịn được mà nghiêng đầu nhìn hắn. Rõ ràng là gương mặt này, rõ ràng chính là hắn, sao nàng có thể nhận lầm được?


 

Có lẽ vì thời gian trôi qua quá lâu, hắn thực sự đã quên nàng, chiếc túi thơm ấy chẳng biết đã thất lạc nơi nào rồi.


 

Tạ Ngọc thấy nàng lúc thì cau mày, lúc lại chu môi, bèn nâng cằm nàng lên: “Sao thế?”


 

Hắn nhịn rồi lại nhịn, cuối cùng vẫn không nhịn được mà dịu giọng hỏi: “Chẳng lẽ vì chưa báo đáp được ân nhân, nên nàng canh cánh trong lòng sao?”


 

Trí nhớ của hắn kém vậy sao? Sao lại hồ đồ đến thế! Thẩm Xuân thoáng lườm hắn một cái đầy bất mãn, rồi thở dài.


 

Tạ Ngọc: “…”


 

Hắn càng không hiểu nàng đang nghĩ gì. Đúng lúc này, Trường Lạc đứng ngoài nhắc nhở: “Tiểu công gia, Hoàng thượng truyền ngài vào cung vào buổi trưa, ngài nên chuẩn bị rồi.”


 

Tạ Ngọc đành phải đứng dậy. Nhưng dọc đường vào cung, tâm trí hắn vẫn vương vấn chuyện của thê tử. Mãi đến khi diện thánh, hắn mới thu lại suy nghĩ, hành lễ: “Thần tham kiến bệ hạ.”


 

Nhị hoàng tử vẫn hôn mê chưa tỉnh. Hoàng thượng dù có kiêng kỵ Hoàng hậu nhưng dẫu sao cũng đặt kỳ vọng lớn vào người trưởng tử này. Trong lòng ông ấy đau xót không thôi, sắc mặt cũng tiều tụy đi mấy phần. Ông ấy phất tay ra hiệu: “Ngồi đi.”


 

Tạ Ngọc chắp tay ngồi xuống, Hoàng thượng liền nói: “Trẫm gọi ngươi vào là để bàn chuyện hòa thân với Hồi Cốt công chúa.”


 

Chưa đợi Tạ Ngọc mở lời, ông ấy đã than thở: “Trẫm vốn định gả vị Thác Bạt công chúa kia cho Nhị lang làm Trắc phi. Nhị lang thân phận tôn quý, lại có tiếng hiền tài, phong nàng ta làm Trắc phi nhất phẩm cũng không ủy khuất. Nhưng nay Nhị lang…”


 

Ông ấy dừng lại một chút, trong mắt lộ vẻ dò xét: “Nhị lang hôn mê chưa tỉnh, hôn sự này e rằng khó thành. Ngươi từng trấn thủ biên cương nhiều năm, theo ngươi, vị hoàng tử nào cưới Thác Bạt công chúa là thích hợp nhất?”


 

Nhị hoàng tử đâu chỉ là hôn mê chưa tỉnh? Trong trận động đất ấy, hắn ta còn bị thương đến gốc rễ, chuyện nối dõi cũng đã không còn hy vọng.


 

Tạ Ngọc sắc mặt không đổi, đứng dậy hành lễ: “Việc này là chuyện gia môn của bệ hạ, thần đâu dám tùy tiện bàn luận.”


 

Hoàng thượng rất hài lòng với câu trả lời này, trên mặt lộ ra vài ý cười, nhưng ngoài miệng vẫn khiển trách: “Chuyện gia môn của trẫm cũng là quốc sự, ngươi và trẫm nói chuyện riêng tư vài câu cũng có sao đâu. Liên Đàm, ngươi lúc nào cũng quá câu nệ phép tắc, chẳng khác nào đánh mất đi thân tình.”


 

Vòng vo một hồi, cuối cùng ông ấy cũng chịu nói ra mục đích thực sự của hôm nay: “Thác Bạt công chúa sắp đến Trường An. Nàng ta đã sai người truyền tin từ trước, muốn ngươi đích thân tiếp đón.”


 

Tạ Ngọc trầm ngâm: “Bệ hạ, việc nghênh đón sứ thần là trách nhiệm của Lễ bộ.”


 

Hoàng thượng lắc đầu: “Chuyện này trẫm đương nhiên biết.” Ông ấy cười mà như không, ánh mắt có vài phần ám muội: “Nhưng vị Thác Bạt công chúa này tên là Thác Bạt Châu, tính ra cũng là người quen cũ của ngươi. Để ngươi chăm sóc, tất nhiên là thỏa đáng hơn rồi.”


 

Năm đó, khi Tạ Ngọc đóng quân ở biên cương, để bắt tay với Hồi Cốt chống lại Đột Quyết, hắn từng một mình xâm nhập Hồi Cốt. Trong khoảng thời gian ở đó, hắn đã gặp Thác Bạt Châu vài lần.


 

Hơn nữa, xét kỹ ra, hai người cũng có chút quan hệ tổ tiên. Ba, bốn mươi năm trước, khi thiên hạ mới yên định, Hồi Cốt muốn cưới Đại Yến công chúa làm Vương phi. Nhưng triều đình lại không có công chúa nào có độ tuổi thích hợp. Lúc ấy, một vị nữ nhi Tạ gia đã đứng ra, chấp nhận gả xa vì hòa bình hai nước. Nếu xét theo quan hệ này, thì Thác Bạt Châu cũng có thể coi là biểu muội cách một tầng quan hệ của Tạ Ngọc.


 

Chuyện liên quan đến quốc gia, Tạ Ngọc không tiện thoái thác, chỉ có thể gật đầu đáp: “Thần sẽ toàn lực phối hợp với Lễ bộ.”


 

Câu trả lời này rất chu toàn. Hoàng thượng khẽ gật đầu, dặn dò thêm: “Lần này chúng ta có thể thu phục được vùng phía Đông sông Hà, hoàn toàn nhờ vào sự hỗ trợ của Hồi Cốt. Sau này muốn giữ được mảnh đất này, cũng không thể không giữ quan hệ tốt với Hồi Cốt. Ngươi nhất định phải tiếp đãi Thác Bạt công chúa thật chu đáo. Nàng ta có yêu cầu gì, nếu có thể thỏa mãn thì cứ tận lực mà làm.”


 

Hai người lại trò chuyện thêm đôi ba câu, Tạ Ngọc đang định hành lễ lui xuống thì Hoàng thượng chợt thản nhiên hỏi: “Đúng rồi, Thẩm Quý phi gần đây lâm bệnh nặng, người Thẩm gia liên tục vào cung thăm nom. Phu nhân của ngươi có muốn vào vấn an một chút không? Dù sao cũng là cô mẫu ruột thịt.”


 

Tạ Ngọc hơi khựng lại.


 

Thông thường, bậc đế vương khi nói chính sự sẽ thỉnh thoảng chen vào vài lời thăm dò. Nhưng vị hoàng đế này thì ngược lại, ông ấy dùng hàng tá lời lẽ thăm dò, rồi chỉ tiện thể nhắc đến chính sự vài câu. Đúng là không biết nặng nhẹ.


 

Hắn hiếm khi có suy nghĩ đánh giá con người, nhưng vẫn đáp lại một cách kín kẽ: “Từ khi vào đông, thân thể của nội tử cũng không được khỏe lắm, thần sợ nàng ấy sẽ mang bệnh khí vào cung, lây cho Quý phi nương nương.”


 

Hoàng thượng nghe vậy, sắc mặt cuối cùng cũng nhẹ nhõm đôi phần: “Vậy cũng đúng, thôi đi, trẫm không giữ ngươi nữa, lui xuống đi.”


 

Tạ Ngọc chắp tay hành lễ, lui ra ngoài.


 

Tạ Ngọc không ngờ rằng vừa mới về phủ vào buổi chiều, Thẩm Xuân đã chạy đến hỏi hắn: “Có phải Quý phi nương nương bệnh rồi không?”


 

Thẩm Xuân vốn không quá thân thiết với người Thẩm gia, nhưng vị Quý phi cô mẫu này lại đối xử với nàng khá tốt. Nghe nói năm xưa, bà ấy và mẫu thân nàng là thanh mai trúc mã. Chính bà ấy là người tác hợp cho mẫu thân và phụ thân nàng thành thân. Trước khi nàng xuất giá, Quý phi cô mẫu thường xuyên truyền nàng vào cung trò chuyện, hay kể cho nàng nghe chuyện của mẫu thân.


 

Đến cả hôn sự của nàng, bà ấy cũng chuẩn bị cho nàng một phần sính lễ rất hậu hĩnh. Trong lòng Thẩm Xuân, vị Quý phi cô mẫu này là một trong số ít người thân của nàng, vậy nên nàng rất quan tâm. Nay bà ấy đột nhiên mang trọng bệnh, dù xét về tình hay lý, nàng đều nên đến thăm.


 

Tạ Ngọc nhíu mày: “Nàng hỏi chuyện này làm gì?”


 

Dạo gần đây quan hệ giữa hai người hòa hoãn hơn, Thẩm Xuân cũng không còn quá dè dặt trước hắn, rất tự nhiên đáp: “Nếu người thực sự bị bệnh, thiếp phải tìm cơ hội vào cung thăm mới được.”


 

Lúc này, nếu là một tôn phụ* đủ tư cách, tuyệt đối sẽ không đưa ra yêu cầu như vậy. Tạ Ngọc có thể hiểu nàng chưa nắm rõ cục diện trong triều, nhưng hắn cũng không định dễ dàng bỏ qua chuyện này.


 

*Tôn phụ: Chỉ những người vợ có địa vị trong gia tộc, phải tuân theo các quy tắc lễ giáo nghiêm khắc.


 

Tạ Ngọc trầm giọng: “Thực ra hôm nay bệ hạ cũng đề nghị nàng vào cung thăm Quý phi, nhưng ta đã thay nàng từ chối. Nàng có biết vì sao không?”


 

Thẩm Xuân mờ mịt lắc đầu.


 

“Ngoài dạy nhi tử, trong răn thê nghi.” Tạ Ngọc bình tĩnh nói: “Thẩm Quý phi có một Ngũ hoàng tử, được bệ hạ vô cùng sủng ái. Nhưng chuyện sau này không ai nói trước được, bà ấy và Ngũ hoàng tử có thể sẽ nảy sinh tâm tư tranh đoạt ngôi vị. Là thần tử, ta cần giữ sự công chính, không thể vào lúc mấu chốt này mà biểu lộ sự thiên vị, nếu không sẽ bị người ta nắm thóp.”


 

Thẩm Xuân khó khăn tiêu hóa những lời này, Tạ Ngọc chợt trầm mặt: “Ai nói với nàng chuyện Quý phi lâm bệnh?”


 

Thẩm Xuân rốt cuộc cũng nhận ra có gì đó không ổn, vô thức hạ thấp giọng: “Thiếp… quên mất đã nghe ở đâu rồi…”


 

Tạ Ngọc chỉ lặng lẽ nhìn nàng từ trên cao, khiến nàng không chịu nổi áp lực, đành chủ động khai ra: “Là Thu Ý, nha hoàn quét dọn trong viện nói.”


 

Nàng cầu xin: “Nàng ta chỉ thuận miệng nhắc đến thôi, không phải cố ý đâu.”


 

Tạ Ngọc hờ hững: “Người trong phủ nên thận trọng lời nói, bất luận là vô tình hay cố ý, sai chính là sai.”


 

Hắn thấy nàng lộ vẻ bất an, trong lòng vốn hơi không đành, nhưng những quy tắc này không thể phá vỡ. Hắn liền cứng rắn quyết định, lập tức xử phạt Thu Ý mười trượng ngay trước mặt nàng, còn ra lệnh vĩnh viễn không cho nàng ta bước chân vào nội viện nữa.


 

Cái gọi là “giết gà dọa khỉ”, mà con khỉ Thẩm Xuân đây thực sự bị thủ đoạn sấm sét của Tạ Ngọc dọa sợ.


 

Nàng vẫn nghĩ rằng đây chỉ là chuyện tán gẫu vặt vãnh, không ngờ trong mắt Tạ Ngọc, nó lại đáng bị trừng phạt nặng nề như vậy.


 

Sáng nay hai người còn tình tứ thân mật, vậy mà chỉ vì một câu lỡ lời, hắn lập tức trở mặt, nghiêm khắc trách phạt hạ nhân trước mặt nàng.


 

Như thể sự gần gũi trước đó giữa hai người chỉ là ảo giác, giữa họ vẫn còn một bức tường vô hình không thể vượt qua.


 

Nàng siết chặt tay áo, chán nản cúi thấp đầu.