Gả Ngọc Lang

Chương 2: Gặp gỡ tình lang



Trời vừa hửng sáng, Thẩm Xuân đã bị nóng đến tỉnh giấc. Nàng mơ mơ màng màng vươn tay sờ soạng, mới phát hiện không biết kẻ nào vô lương tâm lại đắp cho nàng một chiếc áo.

 

Trước khi kịp mở miệng mắng người, ánh mắt nàng lướt qua cặp nến long phụng bên giường đã cháy hết, cuối cùng cũng dần tỉnh táo.

 

Nàng, Thẩm Xuân, đã thành thân rồi!

 

Vậy nên chiếc áo này, là của phu quân nàng, Tạ Ngọc.

 

Thẩm Xuân ôm lấy chiếc áo, hai bàn chân nhỏ vô thức vung vẩy trong không trung.

 

Lần đầu tiên nàng gặp Tạ Ngọc là từ tám, chín năm trước.

 

Khi ấy, nàng lên núi hái nấm để đem đi bán lấy tiền, vô tình sẩy chân rơi vào bẫy thợ săn, bắp chân bị cạm bẫy siết chặt đến chảy máu, chỉ có thể nằm yên chờ chết. Ai lại dám mạo hiểm vào rừng tìm một tiểu cô nương không thân không thích như nàng?

 

Nào ngờ số nàng chưa tận, một thiếu niên tuấn tú, bị lạc đường trong núi lớn lại tình cờ đi ngang, cứu nàng thoát khỏi quỷ môn quan, không chỉ giúp nàng băng bó vết thương, mà còn cung cấp thức ăn và nước uống.

 

Để báo đáp ân tình, Thẩm Xuân đã chỉ đường cho hắn, thế là hắn cõng nàng ra khỏi núi. Đến khi chia tay, hắn mới mỉm cười nói: "Tạ Ngọc, ta tên là Tạ Ngọc."

 

Nàng cứ tưởng cả đời này sẽ không còn gặp lại hắn. Không ngờ vài năm sau, Thẩm Xuân được một gia đình quý tộc đưa về. 

 

Nửa tháng trước, trong một bữa yến tiệc cung đình, nàng vô ý rơi xuống nước, đang lúc hôn mê chìm nổi giữa dòng, một bàn tay trắng nõn như ngọc bất ngờ rẽ nước vươn ra, nắm lấy vai nàng, kéo nàng lên bờ.

 

Hoàng đế nhân cơ hội ban hôn cho hai người.

 

Mãi sau này, nàng mới biết Thẩm Tín Phương và Tạ Ngọc vốn đã có bàn chuyện hôn sự, nhưng hai nhà còn đang cân nhắc những mối phù hợp khác. 

 

Nàng chưa bao giờ cảm thấy mình cướp mất phu quân của ai, mà theo nàng, đây chính là duyên phận giữa nàng và Tạ Ngọc.

 

Nàng đã được gả cho người mà mình từng thích nhất thời niên thiếu. Giờ đây, nàng đã có cơ hội báo đáp ân cứu mạng của hắn rồi!

 

Nàng tựa vào giường cười ngây ngô.

 

Đúng lúc này, ma ma hầu hạ nhẹ giọng nhắc nhở: "Thiếu phu nhân, thiếu gia đang chuẩn bị dùng bữa sáng ở tiền sảnh. Theo quy định, ngày thứ hai sau khi thành thân, tân nương phải đích thân xuống bếp chuẩn bị bữa sáng cho phu quân."

 

Khi Thẩm Xuân nấu xong canh cay, Tạ Ngọc đã ngồi vào bàn, hắn vừa cầm đũa lên gắp một miếng cần tây trộn giấm, tư thái thanh nhã, hệt như một bức họa sống động.

 

Hắn khoác trên mình áo choàng tùng hạc màu xám bạc, vạt áo rộng lớn, người thấp bé mặc vào hẳn sẽ chẳng thấy người đâu. Nhưng nhờ thân hình cao lớn, hắn lại mặc ra được phong thái tiêu sái, phảng phất như một thanh kiếm mỏng trong lớp tuyết lạnh lẽo. 

 

Dung mạo hắn rõ ràng không thuộc kiểu tuấn mỹ vô song, nhưng lại sắc sảo tựa lưỡi dao băng, không ai có thể rời mắt. Chỉ cần hắn xuất hiện, tất cả mọi người xung quanh lập lức lu mờ.

 

Đây là lần đầu tiên sau khi đính hôn, Thẩm Xuân được nhìn rõ khuôn mặt của hắn. Nàng ngây ra một thoáng, bối rối không biết nên đặt ánh mắt ở đâu.

 

Hồi bé Tạ Ngọc đã rất tuấn tú, nhưng tuyệt đối không thể sánh với sự thoát tục phi phàm hiện tại. Nàng thật sự lời to rồi!

 

Thẩm Xuân có chút mất tự nhiên trong chốc lát, nhưng rồi lại bình tĩnh bước tới, ngồi xuống ngay cạnh Tạ Ngọc. Hai người ngồi sánh vai, y phục vướng vào nhau, đan xen chồng chéo.

 

Tạ Ngọc khựng lại một chút, hơi thu tay, tách tà áo hai người ra, lặng lẽ vạch ra một ranh giới rõ ràng.

 

Thu Nương đứng sau hầu hạ giật mình kinh hãi.

 

Nhà họ Tạ quy củ nghiêm ngặt, trừ khi được Tạ Ngọc cho phép, nếu không, thê tử không được phép ngồi cùng bàn với hắn. Huống hồ, thân làm thê tử, nàng nên quỳ bên cạnh hầu hạ, đợi phu quân ăn xong mới được dùng bữa.

 

Tạ Ngọc thân phận tôn quý, tính tình lạnh lùng, trước nay luôn ăn cơm một mình, chưa từng để ai đến gần. 

 

Thu Nương mấp máy môi, định nhắc nhở, nhưng chủ nhân còn chưa mở miệng, bà ấy cũng không dám nói gì, chỉ lặng lẽ chờ hắn nổi giận.

 

Sau một hồi im lặng, Tạ Ngọc nhìn sang Thu Nương: "Lấy thêm một cái bát và một đôi đũa."

 

Dứt lời, ánh mắt hắn cuối cùng cũng dừng lại lên người Thẩm Xuân.

 

Như đào xuân tươi thắm, như lê trắng đầu cành, nàng đẹp tựa đóa hoa nở rộ, đôi mắt đen sáng lấp lánh, tràn đầy sức sống hoang dã, hoàn toàn khác biệt với những tiểu thư khuê các ở Trường An mà hắn từng gặp.

 

Ngay cả vóc dáng cũng có phần đẫy đà, làn da nàng lại có màu mật ong hiếm thấy, như một quả anh đào căng mọng phủ lớp đường mỏng, chỉ cần khẽ ngậm là thấy vị ngọt tan trong miệng. Hình ảnh đêm qua bất giác hiện lên trong tâm trí hắn.

 

Vì vậy, chỉ thoáng nhìn một cái, Tạ Ngọc liền thu hồi ánh mắt.

 

Hắn chưa từng có lòng thương hoa tiếc ngọc, chỉ hờ hững gõ nhẹ lên bàn, lạnh lùng dặn dò: 

 

"Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, đạo lý này nàng hẳn phải rõ. Nay ta và nàng đã thành thân, nàng phải tuân theo quy củ của ta. Gia phong nhà họ Tạ có thể từ từ học, nhưng có một điều nàng nhất định phải ghi nhớ, đó là an phận. Bất luận trước đây nàng sống thế nào, bước vào cửa Tạ gia rồi phải biết an phận thủ thường."

 

Giọng hắn không chút cảm xúc, như đang giáo huấn một hạ nhân: "Ta không thích có người quấy rầy, nàng chỉ cần ở yên trong nội viện, có thể làm được chứ?"

 

Thẩm Xuân vốn đang tràn đầy mong đợi, nghĩ rằng hắn sẽ nhận ra mình, nào ngờ lại bị tạt ngay một gáo nước lạnh. Điều khiến nàng hơi chạnh lòng, chính là Tạ Ngọc đã hoàn toàn quên mất nàng rồi.

 

Nàng tròn mắt nhìn hắn, không biết nên trả lời thế nào.

 

Thấy nàng im lặng, Tạ Ngọc khẽ gõ bàn một lần nữa, giọng trầm xuống: "Có ý kiến gì sao?"

 

Thẩm Xuân chậm rãi liếm môi, lề mề trả lời: "...Ồ."

 

Một thoáng thất vọng, nhưng nàng nhanh chóng lấy lại tinh thần. Đã tám, chín năm trôi qua rồi, hắn không nhớ ra nàng cũng là chuyện bình thường. Dù sao đi nữa, hắn đã cứu nàng hai lần, tình cảm cũng có thể bồi dưỡng từ từ!

 

Nhìn thấy động tác liếm môi của nàng, Tạ Ngọc chợt có thôi thúc muốn ngăn lại, nhưng cuối cùng vẫn nhịn xuống.

 

Dùng xong bữa sáng, hai người còn phải đi bái kiến phụ mẫu. 

 

Thẩm Xuân theo Tạ Ngọc ra khỏi đại điện. 

 

Hôm qua trời mưa suốt cả ngày, nước đọng lại dưới hành lang, nếu mang giày thường mà giẫm lên e rằng sẽ lún sâu vào bùn ngay. 

 

Một nha hoàn nhanh chóng mang đến hai đôi guốc gỗ, một lớn một nhỏ, cúi người đặt dưới chân hai người.

 

Đôi guốc gỗ này dày khoảng hai tấc, ở giữa chỉ có một quai cài. Với hiểu biết hạn hẹp của Thẩm Xuân, nàng nhất thời không nhận ra đây là thứ gì, vẫn còn đang ngẩn ngơ thì bên kia, Tạ Ngọc đã điềm nhiên xỏ guốc vào. Đế guốc cao như vậy mà khi chạm đất hắn lại chẳng phát ra chút tiếng động nào, dáng vẻ thanh tao, phong thái ung dung tự tại.

 

Thẩm Xuân không dám chậm trễ thêm, liền học theo hắn xỏ guốc vào chân rồi vội vàng bước theo sau. Lần đầu tiên mang loại giày khó đi này, hai chân nàng cứ như vừa mới được gắn vào, bước đi cũng chẳng biết làm sao, tiếng "cạch cạch cạch cạch" vang lên như đánh trận.

 

Nàng hoàn toàn không kiểm soát được lực, loạng choạng tiến về phía trước, thế nào mà lại đâm sầm vào người Tạ Ngọc.

 

Tạ Ngọc dừng lại, đưa tay đỡ nàng đứng vững.

 

Nàng bối rối, hai tay vô thức đan vào nhau: "Thiếp … thiếp lần đầu mang loại giày này…"

 

Ánh mắt hắn lướt qua đôi guốc gỗ dưới chân Thẩm Xuân, rất nhanh đã thu lại: "Thôi được rồi, đổi sang giày da đế cứng đi."

 

Chính viện là nơi ở của Tạ Quốc công và Trưởng Công chúa. Hiện tại, Tạ Quốc công hiện chỉ còn giữ hư danh, mọi thực quyền trong nhà đều đã giao lại cho Tạ Ngọc. Trưởng Công chúa là con gái của chính phi, cũng là người lớn tuổi nhất trong thế hệ hoàng tử, Công chúa đời trước. Xét về bối phận, ngay cả hoàng đế hiện tại cũng phải gọi nàng một tiếng "Đại tỷ". Nói một cách thẳng thắn, trừ hoàng đế và hoàng hậu, đây có thể xem là cặp vợ chồng tôn quý nhất thiên hạ.

 

Nơi họ ở đương nhiên cũng hoa lệ vô cùng, trong sân kỳ hoa dị thảo xum xuê, dưới mái hiên chuông gió ngân vang, âm thanh du dương văng vẳng khắp hành lang, bước vào liền cảm thấy tâm trạng khoan khoái khó tả.

 

Nhìn dọc theo lối đi, hai hàng gia nhân đứng ngay ngắn, ai nấy đều nín thở tập trung, không dám phát ra chút tiếng động nào.

 

Theo lý mà nói, tân nương sau ngày cưới nên được ra mắt với toàn bộ trưởng bối, nhưng khi Thẩm Xuân bước vào đại sảnh, chỉ thấy có hai người, Tạ Quốc công và Trưởng Công chúa, đang ngồi nghiêm chỉnh trên ghế, không hề có bóng dáng người khác.

 

Thẩm Xuân kín đáo quan sát, phát hiện vị đại ca tốt bụng thay đệ đệ đi rước dâu, Tạ Vô Kỵ cũng không có mặt.

 

Tạ Ngọc lên tiếng hỏi đúng thắc mắc trong lòng nàng: "Đại ca đâu?"

 

Không hiểu vì sao, Trưởng Công chúa dường như không hài lòng lắm khi nghe hai chữ "đại ca". Bà ngừng lại một chút rồi lạnh nhạt đáp: "Hôm qua sau khi thay con thực hiện lễ thành thân, hắn đã vội ra biên ải nhận chức, e rằng giờ này đã ra khỏi Đồng Quan rồi."

 

Ánh mắt bà lướt qua Thẩm Xuân, thấy nàng có vẻ nghi hoặc nhìn khắp nơi, Trưởng Công chúa hơi cau mày, lạnh nhạt giải thích: "Đừng tìm nữa, hôm nay còn có chuyện, mấy ngày nữa ta sẽ dẫn ngươi đi gặp thân thích trong nhà."

 

Bị bắt gặp đang lơ đãng, Thẩm Xuân ngượng ngùng đưa tay gãi gãi sau đầu, nhe răng cười.

 

Trưởng Công chúa: "…"

 

Bà thực sự không thể chịu nổi dáng vẻ vô phép vô tắc này, nhíu mày quay mặt sang chỗ khác.

 

Tạ Quốc công tính tình lại khá tốt, nhìn Thẩm Xuân mà vẫn giữ nụ cười trên mặt. Điều bất ngờ là dù Trưởng Công chúa sắc mặt lạnh nhạt, cũng không nói thêm lời nào. Thẩm Xuân theo quy củ đã học trước đó, dâng trà hành lễ, phu thê Tạ Quốc công cũng ban thưởng như lệ thường.

 

Trước khi thành thân, Vạn thị đã dặn dò nàng hết lời về sự nghiêm khắc của Trưởng Công chúa, khiến Thẩm Xuân không khỏi lo lắng khi đến bái kiến, không ngờ mọi chuyện lại trôi chảy như vậy. Nàng vẫn chưa kịp hoàn hồn.

 

Trưởng Công chúa không muốn nói nhiều, chỉ nghiêng đầu liếc nhìn đồng hồ nước rồi lên tiếng: "Tam Lang ở lại, ta có chuyện muốn nói với con." Sau đó bà lấy ra một quyển sổ nhỏ mỏng, ra hiệu cho thị nữ đưa cho Thẩm Xuân: "Đây là một số quy củ thường ngày trong nhà, trước khi gặp thân thích trong nhà, ngươi cần học thuộc mấy điều này trước."

 

Quy củ chính thức của Tạ gia có đến bốn quyển lớn, cái bà đưa cho Thẩm Xuân đã là bản giản lược nhất, ít nhất cũng giúp nàng không thất lễ trước mặt người khác trong mấy ngày tới.

 

Nghĩ một chút, bà lại nói thêm: "Qua phòng bên cạnh đọc đi, lát nữa đọc lại cho ta nghe."

 

Thẩm Xuân nhìn quyển sổ nhỏ chỉ có ba bốn trang, sững sờ.

 

Nàng… nàng không biết chữ!!

 

Bút mực giấy nghiên đều là vật quý giá. 

Nàng vốn xuất thân từ một thị trấn nhỏ, cả trấn e rằng cũng không tìm ra được mấy ai biết chữ, vậy thì ai sẽ dạy một cô nhi như nàng đọc sách viết chữ đây?

 

Khi Thừa Ân Bá phủ đón nàng trở về, bọn họ đã biết nàng mù chữ. Nhưng thời đại này trọng chữ nghĩa, ngay cả nha hoàn tam đẳng trong nhà quan lại cũng có thể đọc thông viết thạo, huống hồ gì nàng lại là con gái dòng chính.

 

Vì danh dự gia tộc, Trường Ân Bá phủ tuyên bố với bên ngoài rằng nàng tuy lớn lên ở biên ải nhưng vẫn biết lễ nghĩa, văn chương cũng không kém ai. Ngoại trừ vợ chồng Trường Ân Bá, không ai biết sự thật rằng nàng hoàn toàn không biết chữ.

 

Ban đầu, Bá phủ định để nàng ở nhà từ từ học hành. Không ngờ sự đời trớ trêu, nàng lại được ban hôn với Tạ Ngọc, mà thời gian chuẩn bị chỉ vỏn vẹn nửa tháng. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, nàng vừa phải học quy củ, vừa phải học chữ, dù cố gắng thế nào cũng không thể tiếp thu hết. Đến giờ nàng cũng chỉ miễn cưỡng đọc được một quyển Tam Tự Kinh và nửa quyển Thiên Tự Văn.

 

Trước khi xuất giá, người nhà hết lời dặn dò nàng nhất định phải giấu kín chuyện này, nếu không, Tạ gia tuyệt đối không dung thứ cho một chính thê mù chữ. Nếu bị phát hiện lừa gạt hôn nhân, nhẹ thì bị bỏ, nặng thì bị đưa vào chùa giam cầm sám hối. 

 

Để che giấu sự thật, Bá phủ còn sắp xếp cho nàng một nha hoàn có tài văn chương, chuyên giúp nàng viết thư. 

 

Nhưng quy củ nhà họ Tạ nghiêm ngặt, khi bái kiến phụ mẫu, không ai được phép mang theo hạ nhân. Không ngờ chính vì vậy mà nàng bị lộ tẩy ngay ngày thứ hai sau khi thành thân.

 

Lúc này, Thẩm Xuân đứng sững tại chỗ, đầu óc trống rỗng, mồ hôi lạnh túa ra.

Trưởng Công chúa thấy nàng bất động, khẽ nhướng mày, khí thế áp đảo: 

 

“Sao thế?”

 

Thẩm Xuân khổ không nói nên lời: 

 

“Không... không sao, con sẽ đi học thuộc ngay.”

 

Gương mặt nàng cứng đờ, lặng lẽ bước sang phòng bên cạnh, ánh mắt Tạ Ngọc lướt qua người nàng một thoáng.

 

Khi nàng rời đi, Trưởng Công chúa lập tức lên tiếng:


“Con biết vì sao Hoàng thượng chỉ hôn sự này cho con không?”

 

Tạ Ngọc thờ ơ đáp, trong mắt ánh lên tia giễu cợt nhạt nhòa:


“Một là để ngăn ta liên hôn với danh môn cao quý, hai là để sỉ nhục ta, sỉ nhục Tạ gia.”

 

Hoàng đế này thật biết chơi đùa. Tạ gia không phải lúc nào cũng cao quý sao? Tạ Ngọc không phải lúc nào cũng ngạo mạn sao? Vậy thì hắn cứ chọn một cô nương quê mùa nhất gả vào Tạ gia, thật đúng là một nước cờ hiểm độc!

 

Trưởng Công chúa hừ lạnh: 

 

“Con biết là được. Hoàng thượng với ta không cùng mẹ sinh ra, xưa nay chẳng mấy thân thiết, hắn lại luôn kiêng dè Tạ gia…”

 

Bà nhíu mày đầy tức giận: 

 

“Không chỉ triều đình, ngay cả đám dân thường cũng dám bàn tán về Tạ gia, bàn tán về con! Chúng ta chưa bao giờ phải chịu nỗi nhục này? Giờ con đã thành trò cười của cả Trường An, thật đáng căm phẫn!”

 

Bà cố kiềm chế cơn giận, tiếp tục nói: 

 

“Chuyện hoàng đế ban hôn ta không nhắc nữa, nhưng ta có nghe nhiều lời đồn về nàng ta. Sau khi được đón về phủ Bá tước, chẳng những không biết ơn gia đình mà còn thường xuyên bất hiếu, cãi lời kế mẫu. Với họ hàng thân thích, nó cũng không hòa thuận. Nếu tin đồn này là thật, Tạ gia tuyệt đối không thể chứa chấp loại người ngông cuồng như vậy!”

 

Hoàng thượng đã ép hôn, dù không cam lòng, bà cũng đành chấp nhận đứa con dâu này. Nhưng nếu Thẩm Xuân bất hiếu bất kính, thì bà tuyệt đối không thể dung túng!

 

Vậy nên, ngay ngày đầu tiên bà đã yêu cầu Thẩm Xuân học quy củ.

 

Trưởng Công chúa lắc đầu, giọng điệu chắc nịch:


“Nhà chúng ta coi trọng lễ giáo, đặc biệt là hiếu đạo. Nha đầu đó và con vốn không cùng một thế giới, miễn cưỡng ở bên nhau chỉ làm khổ cả hai, chi bằng dứt khoát đoạn tuyệt sớm.”

 

Bà chỉ tay về phòng bên cạnh: “Hãy mau tìm một cái cớ thích hợp để hòa ly đi!”