Cuối cùng, Điền Thất nghĩ rằng việc Hoàng thượng nổi trận lôi đình lớn đến thế, khả năng cao là do tâm tình ngài vốn đã không tốt. Nàng lại đúng lúc đụng vào mắt ngài, chẳng khác nào trở thành nơi để ngài trút cơn thịnh nộ.
Hiện tại Hoàng thượng vẫn còn cơn nóng giận, tốt nhất là không nên tự tìm đến trước mặt ngài mà chuốc lấy phiền phức. Vì thế, nàng quay về Càn Thanh cung, ngồi lầm lì trong phòng, suy tính cách thức để tránh được tai họa này.
Biện pháp tối ưu tất nhiên là làm hài lòng Hoàng thượng, nhưng vấn đề là làm cách nào để mua vui cho ngài lại khiến Điền Thất cảm thấy vô cùng khó khăn.
Ngoại trừ việc phê duyệt tấu chương ra, dường như Hoàng thượng không hề có hứng thú với thứ gì khác. Từ thuở bé, ngài đã được bồi dưỡng để trở thành người thừa kế ngôi báu. Khi những đứa trẻ khác còn mải mê đấu dế, ngài đã phải ngồi nghe các vị tiên sinh râu tóc bạc phơ giảng giải những đạo lý cao siêu. Lớn hơn một chút, lại bị Quý phi nương nương hãm hại đến sứt đầu mẻ trán, khiến ngài không có cơ hội trưởng thành thành một tên cao lương t.ử đệ [1] ăn chơi hưởng lạc.
[1] Cao lương t.ử đệ: cụm từ chỉ con cháu nhà giàu chỉ biết ăn chơi hưởng lạc.
Nghe đồn, khi còn là Thái tử, ngài hình như chỉ có môn xúc cúc [2] và chủy hoàn [3] là chơi khá tốt. Điền Thất thực sự không biết vị Hoàng đế này rốt cuộc có sở thích gì.
[2] Xúc cúc: môn thể thao cổ đại giống bóng đá.
[3] chủy hoàn: môn thể thao cổ đại cực giống khúc côn cầu.
Vả lại, cho dù ngài có thích thứ gì, cũng không đến lượt nàng bày mưu tính kế. Những người hầu cận Ngự tiền đều được phân công rõ ràng, hầu hạ Hoàng thượng từ mọi ngóc ngách đến mức tưởng chừng như đã thành Ngọc Hoàng Đại Đế. Nàng làm gì có cơ hội để thi triển được chút tài năng.
Nghĩ đến đây, nàng khó tránh khỏi nản lòng. Mấy vị chủ t.ử đoản mệnh trước kia nàng hầu hạ đều là tần phi cấp thấp, quy củ không hà khắc như vậy, khiến người ta còn có đất dụng võ. Nhưng hiện giờ gặp phải Tôn Đại Phật là Hoàng thượng, Điền Thất lại không thể thi triển được chút tài năng nào.
Nàng nằm mãi trong phòng mà vẫn chưa nghĩ thông được. Điền Thất dứt khoát đứng dậy, ra ngoài đi dạo một phen, rồi tạt đến Tiệm Bảo Hòa.
Tiệm Bảo Hòa là một nơi vô cùng kỳ lạ. Đây là cửa hàng do các thái giám tự mình buôn bán, thuở ban đầu chủ yếu chỉ chuyên mua đi bán lại những món đồ đã bị cung đình đào thải, không dùng tới.
Phải biết rằng, dù Ngự khố có lớn đến mấy cũng không thể chứa đồ vật vô hạn. Bất cứ thứ gì mà các chủ t.ử chướng mắt, không còn quý hiếm, hoặc quá cũ kỹ không dùng được, đều có thể ném vào Tiệm Bảo Hòa này để các thái giám mang đi bán. Đám thái giám bán được tiền, sẽ nộp một phần nhỏ lên cho chủ tử, còn lại thì giữ cho riêng mình. Đương nhiên, những vật phẩm không hợp quy chế, hoặc những thứ người thường không thể sử dụng như long bào, tuyệt đối cấm không được bán.
Để phòng ngừa việc có kẻ cầm tang vật tới đoạt lợi, phàm là đồ vật từ trong nội cung đưa ra ngoài, đều phải có sự cho phép của chủ t.ử các cung, tiệm Bảo Hòa mới dám nhận. Tuy rằng những thứ này bị người trong cung ghét bỏ, nhưng ở bên ngoài lại vô cùng được ưa chuộng.
Về sau, tiệm Bảo Hòa không chỉ kinh doanh vật phẩm từ cung cấm, mà phàm là kỳ trân dị bảo từ nam chí bắc, khách nhân đều có thể mang đến đây ký gửi bán. Theo đó, nơi này có chút giống một tiệm cầm đồ.
Lại có những thái giám bất chính, khi bán đồ vật bèn bịa đặt là xuất phát từ trong cung. Người mua có nhãn lực sắc sảo ắt sẽ không mắc lừa, song cũng có không ít người nguyện ý trả thêm tiền, chỉ vì xuất thân danh giá của món đồ đó.
Tiệm Bảo Hòa nằm gần phía ngoài cổng thành, thế nhưng kho hàng lại đặt ngay bên trong T.ử Cấm thành. Các chủ t.ử lẫn nô tài trong cung cũng có thể tới tiệm Bảo Hòa mua đồ, chẳng qua đồ đạc đều là thứ tầm thường, vì vậy rất ít người lui tới. Điền Thất không còn cách nào khác, nàng muốn tìm tòi một món đồ gì đó hay ho để lấy lòng Hoàng thượng, dù sao cũng không ôm hy vọng quá nhiều, rảnh rỗi không có việc gì làm, chi bằng thử tìm kiếm chút cơ duyên xem sao.
Ấy vậy mà, lần này, lại thật sự làm cho nàng tìm ra được một món đồ tốt.
Kỷ Hành dùng bữa tối cùng Thái hậu ở Từ Ninh cung xong xuôi, mới trở về Càn Thanh cung.
Lúc rời đi, cơn giận của hắn đã sớm tan biến. Việc bản thân lại nổi điên vì một chuyện nhỏ nhặt như vậy khiến hắn có chút ngoài ý muốn. Hắn thầm nghĩ, có lẽ là vì Hoàng cung vốn dĩ trang nghiêm, yên tĩnh, nay lại bị Điền Thất gây xáo động, có phần không hợp quy tắc, khiến Hoàng cung giống như một sân khấu tạp kỹ, vì thế, việc hắn tức giận là lẽ thường tình.
May mắn là Như Ý chỉ khóc một chút xíu, không khiến cho Thái hậu phát giác, Kỷ Hành nghĩ đến đây, thấy an tâm đôi chút. Vị mẫu hậu này của hắn có một tay tuyệt học. Đại khái là từ chỗ Tiên đế mà luyện ra, nước mắt của bà xuất thần nhập hóa, muốn khóc là khóc, muốn ngừng liền ngừng. Có đôi khi Tiên đế bị Quý phi xúi giục đôi câu, rồi tìm đến bà bắt lỗi, bà luôn luôn yên lặng rơi lệ, mà rất ít khi biện giải. Đàn ông, đối với nữ nhân như vậy rốt cuộc là không thể phát tiết được. Vị này lại là Chính thất, còn sinh con trai cho Tiên đế, nhiều năm như vậy không có công lao cũng có khổ lao, cớ gì phải bới móc? Thế là hành động gây khó dễ cứ thế từ bỏ.
Tuy rằng hành vi khóc lóc này thoạt nhìn có vẻ mềm yếu, nhưng đối phó với Tiên đế quả là vô cùng hữu hiệu. Kỷ Hành cảm thấy, mẫu thân hắn kỳ thực không hề yếu đuối, ngược lại, bà ẩn chứa sức mạnh nội nhu ngoại cương. Bà rất giỏi nắm bắt tâm lý người khác, biết dùng cách tốt nhất để bảo vệ bản thân và con cái, cũng biết làm thế nào để lẩn tránh sự khiêu khích thậm chí là hãm hại của sủng phi. Bà lý trí mà tỉnh táo, tuy rằng từng rơi rất nhiều nước mắt nhưng trước giờ không hề tự oán, tự trách hay tự thương xót thân phận mình. Bà cũng sẽ không truyền tâm tình tiêu cực hoặc sự uất ức cho con trai, ngược lại là người thường xuyên cổ vũ Kỷ Hành.
Bởi vậy, bà mới có thể là người cười đến cuối cùng.
Trở lại Càn Thanh cung, Kỷ Hành tới Thư Phòng. Hắn muốn yên tĩnh một lát, bèn vẫy tay bảo Thịnh An Hoài lui xuống. Ai ngờ, Thịnh An Hoài vừa đi khỏi, Điền Thất đã mặt mày tươi cười tiến vào.
Đôi tay nàng ôm một hộp gỗ thon dài làm từ gỗ hoa lê, ánh mắt nàng ánh lên vẻ mong chờ, bước chân thật nhẹ nhàng. Nàng đứng ở trong phòng, thấp thỏm mong đợi nhìn Kỷ Hành.
Kỷ Hành vừa thấy Điền Thất, liền nghĩ đến câu quái luận "Hoàng thượng cũng muốn cưỡi rùa" của tên tiểu thái giám này, thế là cau mày nhìn nàng, cất lời: "Ngươi không phải đã hết giờ làm việc rồi sao, còn đến đây làm gì?"
"Khải bẩm Hoàng thượng, nô tài không phải đến để hầu hạ. Hôm nay nô tài tìm được món đồ tốt, vội vàng mang đến đây để hiếu kính ngài!"
Kỷ Hành đặt quyển sách trong tay xuống bàn, khóe miệng khẽ giật, cười cợt nói: "Ồ? Vậy sao, cái đồ nấm nước tiểu ch.ó [1] kia có quý giá bằng trời? Ngươi kích động đến mức giống như bị thất tâm phong vậy."
[1]Nấm nước tiểu chó: Nấm niệu đài ở Việt Nam gọi là nấm ch.ó đái. Nấm màu trắng có mũ nấm hơi nâu ở chính giữa. Nhỏ như ngon tay, thường mọc thành đám.
●Thất tâm phong: bị khùng/ điên)
Điền Thất vẫn ôm chặt cái hộp, cười ngây ngô.
"Không phải ngươi nói muốn cho Trẫm xem sao? Còn không mau trình lên."
Điền Thất nhanh nhẹn bước tới, đem cái hộp đặt ngay trên bàn, rồi mở nắp hộp ra.
Trong hộp lót một tầng sa tanh, bên trên là một chiếc quạt xếp. Kỷ Hành lấy cây quạt ra, xương quạt là loại trúc ngọc bình thường, không phải trân phẩm gì, thậm chí còn bị biến dạng đôi chút. Chỉ có điều, bề mặt bên ngoài đã cũ kỹ ngả sang màu nâu sẫm, chứng tỏ chiếc quạt này dường như đã có chút niên đại.
Hắn mở cây quạt ra. Giấy đã ố vàng, xung quanh nổi lên những đám sợi tơ nhỏ.
Trên mặt quạt vẽ chân dung một nhân vật, là một thiếu niên đang chơi xúc cúc. Thần sắc thiếu niên có chút sắc bén, theo góc áo tung bay có thể thấy hành động của y lướt nhanh như gió cuốn. Một chân y gấp khúc, đá xúc cúc về phía trước, quả cầu bay càng lúc càng xa, chỉ hóa thành một điểm đỏ nhỏ, lập tức biến mất không thấy.
Tinh túy của vẽ chân dung chính là lấy hình dáng để tả ra thần thái. Bức họa này chỉ dùng vài nét phác thảo đơn giản, mà hình và thần đều tuyệt diệu, họa sĩ chắc chắn là một danh họa. Kỷ Hành ngẩng đầu nhìn lướt qua Điền Thất, thấy ánh mắt nàng sáng ngời, giống hệt một con vật nhỏ đang chờ được khen ngợi. Nếu như phía sau nàng có cái đuôi, lúc này nhất định nó đã ngoe nguẩy qua lại rồi.
Kỷ Hành khẽ cong môi lên, có chút buồn cười. Hắn cúi đầu, tiếp tục nhìn phần lạc khoản trên mặt quạt. Vừa nhìn thấy, hắn nhất thời kinh ngạc đến nỗi thần sắc đều trở nên nghiêm trọng.
(lạc khoản: phần để lưu chữ ký hoặc ps)
Trên mặt quạt không có đề chữ lưu niệm, mà chỉ có một lạc khoản đỏ vuông vắn, với hai chữ triện nhỏ xíu, chỉ bằng ngón cái: Mục Khê.
Kỷ Hành ngẩng đầu lần nữa, trên gương mặt ánh lên vẻ thâm ý khôn lường, hắn đ.á.n.h giá Điền Thất, hỏi: "Ngươi có biết bức tranh này do ai vẽ không?"
"Khải bẩm Hoàng thượng, nô tài không rõ. Nô tài thấy xương quạt hẳn đã trải qua mấy trăm năm, bức tranh trên mặt quạt lại vô cùng thú vị, nên mới muốn dâng lên ngài thưởng lãm."
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
"Đây là tranh do hòa thượng Pháp Thường triều Nam Tống vẽ," Kỷ Hành chỉ vào chữ triện nhỏ hình vuông kia: "Tên tục của Pháp Thường chính là Mục Khê. Vị hòa thượng này tinh thông họa pháp chấm phá, nổi tiếng với tranh hoa điểu truyền thần, cũng có vẽ người, nhưng chưa từng nghe nói ngài vẽ đề tài xúc cúc."
Ếch Ngồi Đáy Nồi
--- Hạ Vũ trong mộng Vân Mộng ---
"Chẳng lẽ bức tranh này là giả sao?"
Kỷ Hành lắc lắc đầu: "Không, xét theo ấn tích và bút ý mà nói, đây quả thật là bút tích chân thật của Pháp Thường. Sinh bình của Pháp Thường vốn thần bí, khó lòng khảo cứu, việc hắn ưa thích xúc cúc hoặc vẽ về đề tài này, cũng không phải là chuyện gì khó tin. Rốt cuộc cây quạt này, ngươi kiếm được từ nơi nào?"
"Nô tài mua từ tiệm Bảo Hòa."
Nói đến đây, Điền Thất không khỏi mừng thầm. Các thái giám ở tiệm Bảo Hòa, bởi học vấn có hạn, tinh thông việc chọn đồ cổ khác nhưng lại chẳng am tường về tranh chữ. Pháp Thường lại là nhân vật thần bí, các họa tác tồn thế cũng không nhiều, vẽ đề tài xúc cúc thì càng chưa từng nghe qua. Chữ triện nhỏ kia bọn họ cũng không nhận ra. Vì những lẽ ấy, món bảo vật vô giá mới bị ném thẳng vào đống tạp vật, chỉ được bán theo niên đại cũ kỹ mà thôi.
Lúc ấy Điền Thất từng hỏi qua thái giám nơi đó, cây quạt này từ đâu mà có, nghe trả lời là có một tên con nhà tửu sắc bại hoại thích đ.á.n.h bạc bán cho tiệm Bảo Hòa, y bán quá nhiều đồ vật, cây quạt này chỉ xem như là quà tặng kèm theo cùng đưa đi.
Nhờ vậy, Điền Thất mới nhặt được món hời lớn như thế.
Bấy giờ Kỷ Hành nghe được cây quạt này mua từ tiệm Bảo Hòa, cũng cảm thấy kỳ lạ: "Trong tiệm Bảo Hòa còn có loại đồ tốt này sao? Ngươi đã tốn bao nhiêu tiền?"
Điền Thất vươn bốn ngón tay ra so.
"Bốn ngàn lượng?"
"Bốn mươi lượng bạc."
"..."
Thấy Kỷ Hành không lời, Điền Thất lại chỉ chỉ cái hộp bằng gỗ lê: "Cái hộp này lại đến sáu mươi lượng lận, mặc cho nô tài trả giá nửa ngày, hắn cũng nhất quyết không chịu nhượng bộ."
Đây rõ ràng là vứt ngọc lấy đá quý, quả thực là kẻ có mắt không tròng, phung phí thiên vật. Kỷ Hành khẽ day trán, thấy trong cung mình lại có một đám nô tài ngu xuẩn như thế, cảm giác bất lực vô cùng.
Điền Thất thăm dò hỏi: "Hoàng thượng, ngài thấy cây quạt này có vừa ý không?"
Kỷ Hành không đáp lời, chỉ nhẹ nhàng đặt quạt vào hộp, đóng nắp lại, rồi mới cất tiếng: "Ngươi mua hai vật này hết thảy một trăm lượng bạc?"
"Dạ, vâng."
"Ngươi tự mình đi đến kho Nội phủ lĩnh hai trăm lượng."
"Tuân chỉ." Điền Thất nghĩ trong lòng, tiền bạc không trọng yếu, chỉ cần Thánh Thượng vừa lòng là tốt rồi.
"Vàng ròng."
"..." Nàng ngu ngơ nhìn hắn.
"Đi lĩnh hai trăm lượng vàng ròng, sao? Ngươi nghe không rõ lời trẫm sao?" Kỷ Hành thấy dáng vẻ si ngốc của nàng, nhịn hết lần này đến lần khác, cuối cùng khóe môi vẫn cong lên một nụ cười nhạt.
Điền Thất vội vàng tạ ơn long ân của chủ thượng, trong lòng nghĩ tiền quả thật là quá trọng yếu. Đang muốn cáo lui, nàng lại nghĩ đến một vấn đề: "Hoàng thượng, sáng mai tan ca nô tài có thể xin nghỉ, xuất cung một chuyến được không?"
"Ngươi xuất cung làm gì?"
"Để cất giữ tiền bạc. Hai trăm lượng vàng quý giá như thế, nếu cất trong cung không khỏi có điều sơ suất."
... Quả nhiên trong mắt tiểu t.ử này chỉ có tiền bạc. Tâm tình Kỷ Hành đang khoan khoái, cũng chẳng muốn so đo mấy chuyện vụn vặt này với Điền Thất, chỉ nói: "Đi đi."
Điền Thất đi rồi, Kỷ Hành mới lại đem cái hộp gỗ kia mở ra, lấy cây quạt đến thưởng thức.
Tên tiểu t.ử thối này, chỉ vì bị trẫm khiển trách mấy câu hôm nay mà đã vội vã chạy đến Bảo Hòa tìm đồ dâng lên. Hóa ra... Trẫm đáng sợ đến vậy ư?
Lại nhìn đồ vật trước mắt, quả không hổ là nô tài trẫm đã chọn trúng, tìm vật dâng lên cũng hợp ý trẫm đến thế, quả là hiếm có.
Hắn để cây quạt xuống, rồi lại nhìn cái hộp bằng gỗ hoa lê kia. Thân hộp màu vàng óng ánh, vân gỗ kỳ lạ (vân quỷ kiểm) màu đỏ sậm lại trông vô cùng tinh xảo, bên trên nắp hộp còn khắc một hình hồ lô, cũng coi là đồ vật tốt.
Kỷ Hành bất giác cảm thán. Điền Thất vì một cây quạt giá bốn mươi lượng bạc mà lại dám mua chiếc hộp sáu mươi lượng. Các thái giám kiếm tiền chẳng dễ dàng, nhưng vẫn cố gắng bày tỏ tâm tư của mình.
Kỷ Hành vuốt ve tiểu hồ lô trên nắp hộp, trong đầu hiện ra hình dạng Điền Thất ân cần vẫy đuôi như ch.ó nhỏ khi nãy, quả thực ngốc nghếch.
Nghĩ nghĩ, Kỷ Hành không chịu nổi lắc đầu cười nhẹ, trên mặt treo vẻ ôn nhu mà ngay chính hắn cũng không thể phát hiện. Hắn lẩm nhẩm một tiếng: "Tiểu quỷ."
Chú thích:
[1] Nấm nước tiểu chó:
Nguyên văn là "Cẩu niệu đài". Tên này chỉ một loại khuẩn hoặc rêu thuộc họ nấm (có hình dạng giống nấm), thường mọc ở những nơi ẩm thấp do ch.ó hay đi tiểu hoặc cây gỗ ngấm nước tiểu chó. Đây là một loại nấm độc. Vì nguồn gốc sinh trưởng như thế nên có tên tục là "nấm nước tiểu chó". Tên tục như vậy cũng đủ hiểu hình ảnh so sánh ẩn dụ về loại thực vật đê tiện này rồi.
Bên cạnh đó, dân gian còn lưu truyền một câu tục ngữ: "Cẩu niệu đài lớn lên ở điện Kim Loan." (Nấm nước tiểu ch.ó sinh trưởng tại chính điện Kim Loan). Ý câu này nhằm ám chỉ một kẻ tuy ngu dốt, hèn mọn, đê tiện, có xuất thân thấp kém như nấm nước tiểu chó, nhưng nhờ số mệnh ưu ái, có quý nhân che chở, hoặc hoàn cảnh cực kỳ thuận lợi mà vẫn có thể đặt chân vào nơi tôn quý nhất như điện Kim Loan.
Ví dụ như Đường Tăng, cũng từng bị ví như cây nấm nước tiểu chó/ cẩu niệu đài.
Điện Kim Loan là tên gọi chính điện trong Hoàng cung, tuy tên có thể khác nhau tùy theo triều đại, nhưng ý nghĩa luôn là nơi tối cao của quyền lực.
Hoặc cũng có câu "Cẩu niệu đài vẫn hoàn cẩu niệu đài", tương tự câu "mèo vẫn hoàn mèo", ý chỉ bản chất ngu dốt, đê tiện thì mãi mãi không thay đổi.