Viện mồ côi Hạnh Phúc nằm sâu trong vùng núi hoang vu của Cảng Thành. Từ sở cảnh sát chạy xe đến đó mất hơn một tiếng rưỡi.
Trên đường đi, Lục Thính An tranh thủ dựa ghế ngủ một giấc ngon lành. Ngủ sâu đến mức xe đi qua ổ gà xóc hai cái rõ mạnh mà cậu cũng chẳng nhúc nhích.
Cố Ứng Châu nhiều lần định mở lời bàn chuyện vụ án, nhưng mỗi lần quay sang nhìn thấy hàng mi dài khẽ rũ xuống, gương mặt yên bình của Lục Thính An, anh lại ngập ngừng, cuối cùng vẫn không nỡ gọi dậy.
Một tiếng rưỡi sau, xe đến nơi.
Cố Ứng Châu là người xuống trước, đi một vòng kiểm tra xung quanh, chắc chắn an toàn rồi mới gõ nhẹ vào cửa kính xe. Lục Thính An lúc này mới dần tỉnh lại, ánh mắt còn mang theo vài phần mờ mịt sau giấc ngủ.
“Đến rồi à?” Cậu cởi dây an toàn, mở cửa bước xuống. Vừa đứng trước mặt Cố Ứng Châu đã không nhịn được ngáp một cái thật dài.
“Lúc đến sao không gọi tôi dậy?”
Cố Ứng Châu đáp một đằng, trả lời một nẻo:
“Trông cậu mệt lắm.”
Lục Thính An đùa cợt:
“Tối qua ngủ không yên, toàn mơ thấy ác mộng. Đến rồi thì đi vào thôi.”
Vừa rồi còn bị tầm nhìn của Cố Ứng Châu che khuất, cậu chỉ thấy xe đậu ở con đường đầy bùn đất gồ ghề, xung quanh là cây cối cằn cỗi. Giờ vòng qua phía trước, Lục Thính An mới nhận ra, đám phóng viên chụp lén gọi đây là “cô nhi viện cũ nát” quả thật vẫn còn giữ thể diện cho nơi này.
Đứng ngay trước mặt họ nào có thứ gì gọi là “kiến trúc”? Nhìn chẳng khác gì một căn nhà hoang chực đổ.
Cánh cổng sắt rỉ sét, lấm tấm những vệt loang, khóa mắt còn chằng chịt xích sắt khóa quanh. Trong sân có hai cây vạn tuế già khụ, rễ cây to nổi cả lên khỏi lớp đất nứt nẻ. Đất thì lởm chởm sỏi đá vụn, đầy cỏ dại.
Bên trong ngôi nhà chính càng thảm hại: tường bong tróc nứt toác, cửa sổ vỡ kính được che tạm bằng vài tấm gỗ mục méo mó; dây thường xuân mọc dày đặc leo bám khắp các bức tường.
Tất cả đều không giống một nơi có người sinh sống. Đáng ngạc nhiên hơn, xung quanh không hề nghe thấy tiếng cười nói của trẻ con, một chút cũng không có.
Nam Cung Tư Uyển
Lục Thính An lùi lại vài bước, nhíu mày:
“Trông chẳng giống còn người ở. Không lẽ dọn đi hết rồi?”
Cậu nhìn sang bên cánh cổng, thấy một tấm bảng hiệu bị gió thổi nghiêng, chữ đã bong tróc gần hết, lờ mờ có thể đọc ra mấy chữ như “Tân Điền Dưa Nhỏ Xong” hay gì đó tương tự.
Thu lại ánh mắt nghi hoặc, Lục Thính An thử hô lên một tiếng:
“Có ai không?!”
Gọi xong, cậu căng tai lắng nghe nhưng không một tiếng động. Đến chim trong rừng cũng chẳng thèm vỗ cánh bay đi. Một khoảng lặng bất thường, khiến người ta sởn gáy.
“Có ai không?” Cậu gọi lần nữa, lần này lớn hơn.
Vẫn không ai đáp lại.
Ngay lúc cậu chuẩn bị gọi tiếp lần ba, Cố Ứng Châu giơ tay kéo cậu lại:
“Dù cậu có hét rách cổ họng thì cũng chẳng ai ra mở cửa đâu.”
Lục Thính An nghiêng đầu nhìn anh:
“Vậy nếu không ai ở đây, hai người chúng ta đứng chầu chực trước cổng làm gì? Làm tượng canh cổng hả?”
Không đáp, Cố Ứng Châu tiến lên, nắm lấy sợi xích khóa trên cổng. Sợi xích nhìn thì có vẻ rỉ sét, cuốn nhiều vòng chắc chắn. Nhưng anh chỉ cần luồn tay đúng vài điểm “cạch” một tiếng trầm đục, cả đoạn xích rơi bịch xuống đất.
Lục Thính An: “…”
Cậu nhíu mày, khó chịu:
“Anh biết cửa không khóa từ đầu rồi đúng không? Biết sao không nói luôn?”
Cố Ứng Châu liếc nhìn cậu, ánh mắt mang theo chút chế giễu, khẽ cười:
“Cậu ngủ một mạch cả đoạn đường, gọi mấy tiếng chẳng phải cũng giúp tỉnh táo hơn sao?”
Lục Thính An: “……”
Không biết có phải ảo giác không, cậu cảm thấy trong lời của Cố Ứng Châu vừa rồi có chút… oán khí?
Lúc cậu nhấc chân định bước vào trong, Cố Ứng Châu nhẹ nhàng bổ sung:
“Sau vườn có phơi vài bộ quần áo và khăn tắm, nước còn chưa khô hết. Cô nhi viện này vẫn còn người ở.”
Vòng qua gốc vạn tuế già, hai người đi dọc theo mái hiên. Cánh cửa phía trong không khóa, đẩy nhẹ một cái đã phát ra tiếng “kẽo kẹt” khô khốc rồi từ từ mở ra.
Cửa sổ bị che kín, ánh sáng trong phòng rất yếu. Mắt phải mất vài giây điều chỉnh mới nhìn rõ được: đây là một hành lang dài, trên tường có dán vài thứ gì đó.
Lục Thính An bước tới gần nhìn kỹ.
“Toàn là tranh vẽ của bọn nhỏ, còn có vài tấm ảnh chụp chung… có cái nhìn như đã từ rất nhiều năm trước.”
Tranh vẽ và ảnh đều đã ố vàng, sờ vào thấy giòn tan.
Dễ dàng nhận ra nơi này từng là một nơi ấm áp. Trong tranh là sơn thủy, mặt trời, tiếng cười đùa từng nét bút đều thể hiện sự hồn nhiên và lạc quan. Dù sinh sống trong cô nhi viện, những đứa trẻ ở đây dường như chưa từng bị bóng tối làm méo mó tâm hồn.
“Rào rạt… Đông—”
Phía trước bỗng có thứ gì đó rơi xuống, tiếp theo là tiếng bước chân hoảng loạn chạy xa.
Sắc mặt Cố Ứng Châu trầm xuống.
“Ai đó!”
Anh lập tức đuổi theo, vóc người cao ráo, chân dài bước nhanh chỉ mấy bước đã tới khúc ngoặt, phát hiện một cậu nhóc cao chỉ tới eo mình.
Cánh tay dài vung ra, anh dễ dàng túm lấy cậu bé, nhấc nửa người cậu lên lơ lửng trước mặt.
“Trẻ con? Cô nhi viện này thực sự còn có trẻ con sống ở đây?”
Thằng bé chừng mười một, mười hai tuổi, gầy gò, mặc một chiếc áo bông cũ rách chẳng biết lấy từ đâu. Bị người lạ túm lên, cậu bé hoảng sợ giãy dụa loạn xạ, theo bản năng cúi đầu cắn mạnh một phát vào tay Cố Ứng Châu.
Nhưng vì Cố Ứng Châu mặc đồ dày, cú cắn đó chẳng khác nào cắn vào không khí.
Thằng bé sợ tới phát khóc, miệng méo xệch, nước mắt chảy ròng ròng, nước mũi cũng túa ra.
“Viện trưởooong! Ô ô ô viện trưởng, chạy mau!!”
Lục Thính An lúc này mới theo kịp, vừa hay thấy cảnh Cố Ứng Châu đang chật vật che miệng thằng bé, mặt đầy ghét bỏ. Thằng nhỏ thì vừa khóc vừa dãy, mũi miệng lem nhem, nhìn mà ngứa cả mắt.
Lục Thính An: “…”
Cậu bất đắc dĩ tiến tới, vỗ tay Cố Ứng Châu:
“Anh túm nó làm gì? Thả ra đi, để nó dẫn mình đi gặp viện trưởng.”
Thằng bé nhút nhát, lúc đầu nhất quyết không chịu nói viện trưởng ở đâu. Mãi đến khi Lục Thính An lấy giấy chứng nhận ra cho xem, vừa dỗ vừa hứa, nó mới nức nở chỉ đường bằng giọng mũi nho nhỏ:
“Đi theo em… Viện trưởng ở căn phòng cuối cùng.”
Cả ba đi ngoằn ngoèo qua mấy hành lang, rẽ trái quẹo phải hồi lâu mới tới được một căn phòng sáng sủa hơn những nơi khác.
Phòng hướng nam, giữa phòng là một chiếc giường. Bên cửa sổ có một cái bàn, xung quanh chất đầy hộp giấy, còn có vài bó hoa làm từ giấy màu được xếp gọn. Trên mặt đất cũng lác đác vài tấm giấy thủ công.
Cậu nhóc khẽ nói:
“Viện trưởng đang làm việc. Bà ấy lớn tuổi rồi, tai không còn nghe rõ, hai người đừng làm bà sợ.”
Lục Thính An gật đầu. Bảo sao vừa rồi cậu gọi to như thế mà bên trong vẫn không có ai đáp lại thì ra là vì nghe không rõ.
Cậu chỉ vào đống đồ trên mặt đất, hỏi:
“Mấy thứ này đều là công việc của bà ấy?”
Cậu bé gật đầu:
“Hộp giấy dán xong thì mang lên trấn cho mấy người bán hàng rong, họ dùng để gói đồ. Hoa giấy thì nhiều chỗ dùng lắm, như người giấy, diều, với mấy món đồ chơi nhỏ nữa. Viện trưởng tay rất khéo, trên trấn có nhiều người đặt làm, bà còn giúp người ta may vá nữa đó.”
Nhắc đến viện trưởng, cậu nhóc đầy mặt là tự hào. Nhưng nói đến đây, lại lộ ra vẻ khổ sở:
“Cháu còn nhỏ quá, không giúp gì được. Nếu không thì viện trưởng cũng không phải vất vả đến vậy.”
Lục Thính An không nói gì, chỉ giơ tay nhẹ nhàng xoa đầu cậu. Cậu nhóc đỏ mặt, lúng túng tránh ra rồi lon ton chạy về phía viện trưởng, lớn tiếng gọi:
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -
“Viện trưởng! Có hai người tới tìm bà hỏi chuyện!”
Viện trưởng “ừ” hai tiếng, vội buông tay khỏi công việc, xoay người lại.
Lúc này Lục Thính An và Cố Ứng Châu mới nhìn rõ dung mạo bà. Một người phụ nữ lớn tuổi, hiền hậu và phúc hậu. Bà chắc đã hơn tám mươi, khuôn mặt đầy nếp nhăn, nhưng ánh mắt vẫn dịu dàng, khí chất từ tốn, khiến người ta vừa nhìn đã thấy thân thiết. Có thể tưởng tượng được khi còn trẻ bà là một mỹ nhân hiền hòa thế nào.
“Chào hai cậu.” Viện trưởng gập lưng, đứng dậy chào. Bà chỉ cao hơn cậu nhóc kia một chút, “Hai cậu đến có chuyện gì? Cứ hỏi, chỉ cần tôi biết, nhất định sẽ nói.”
Cố Ứng Châu không để bà phải đứng lâu, bảo cậu bé đỡ bà ngồi xuống bên giường. Sau đó, anh mới nâng giọng hỏi:
“Cô nhi viện bây giờ chỉ còn hai người là bà với thằng bé này thôi sao? Những đứa trẻ khác đâu rồi?”
Viện trưởng chỉ vào hai chiếc ghế băng thấp đặt sát tường, ra hiệu cho họ ngồi. Lục Thính An thấy ghế nhỏ đến nỗi ngồi xuống là chân phải co lại, liền kéo cậu nhóc lại ngồi cạnh mình, không cho bé phải đứng nữa.
Viện trưởng chậm rãi nói:
“Chỗ này nằm sâu trong núi, mấy năm trước không còn ai hỗ trợ viện nữa. Tôi với mấy cô phụ trách nuôi không nổi nhiều trẻ như trước, nên đành phải giải tán. Cũng đã gần ba năm rồi.”
“Còn bọn nhỏ thì sao?” Lục Thính An hỏi.
Bà mỉm cười, đầy từ ái:
“Chúng nó đều rất ngoan. Hồi trước còn luyến tiếc tôi và viện, nên không chịu rời đi, không chịu nhận gia đình mới. Sau này biết viện sắp đóng cửa, chúng nó đều tự nguyện rời đi. Thật ra sớm nên như vậy, có gia đình mới thì mới sống tốt hơn, mới được đi học, có tương lai.”
Nhắc đến chuyện cũ, khóe mắt cậu nhóc đỏ hoe. Cậu rúc vào lòng viện trưởng, ôm chặt bà. Bàn tay già nua của bà run run xoa đầu cậu bé:
“An An là đứa duy nhất kiên quyết không chịu đi. Nó cứ sợ tôi ở lại một mình sẽ không sống nổi. Nhưng mấy năm qua, chính nó lại là người chăm sóc tôi. Mới mười tuổi thôi mà đã biết nấu cơm, giặt đồ, quét dọn khắp viện.”
Lục Thính An nhìn hai bà cháu ôm nhau, trong lòng cũng thấy xao động.
“Mười tuổi rồi là lớn rồi đấy. Đã đi học chưa?”
Viện trưởng khẽ lắc đầu:
“Chưa. Tôi đang cố dành dụm học phí, chắc đến hè sẽ cho nó nhập học.”
An An nghe vậy bĩu môi lẩm bẩm:
“Con không muốn đi học, lãng phí tiền làm gì…”
Câu này thằng bé nói hoài, viện trưởng chỉ mỉm cười không đáp. Bà nhìn sang hai người họ, hỏi:
“Hai cậu đến đây, chắc là còn chuyện quan trọng hơn đúng không?”
Cố Ứng Châu không trả lời ngay, chỉ lấy từ túi áo ra hai bức ảnh. Anh chỉ vào cô bé trong ảnh, hỏi:
“Cô bé này, từng ở cô nhi viện này đúng không? Cô bé rời đi từ khi nào?”
Thấy hai người họ mặc cảnh phục, sắc mặt bà lập tức biến đổi, lo lắng hỏi:
“Không phải là… xảy ra chuyện gì rồi chứ?”
“Vẫn chưa thể khẳng định.” Lục Thính An nói, “Bọn tôi đến để xác nhận lại. Cô bé tên Tiểu Quả này có phải năm năm trước đã rời khỏi viện cùng với Tống Nghi Chi? Và từ đó đến giờ, cô bé có quay lại lần nào không?”
Viện trưởng lập tức trở nên lo lắng. Khi nghe đến cái tên “Tống Nghi Chi”, thần sắc bà thoáng hoảng hốt, như thể ký ức bị kéo ngược về tận mấy năm trước.
“Đúng rồi,” bà chậm rãi gật đầu, “Tống tiểu thư là người rất tốt. Năm đó đã giúp cô nhi viện của chúng tôi rất nhiều. Năm năm trước, Tiểu Quả bắt đầu ra dáng thiếu nữ, lại rất thích nhảy múa. Tống tiểu thư không nói hai lời, trực tiếp đưa con bé vào thành phố, còn sắp xếp cho nó học ở lớp vũ đạo tốt nhất. Đáng tiếc… Tống tiểu thư là người tốt như vậy, không ngờ lại… ra đi sớm.”
Lục Thính An và Cố Ứng Châu liếc nhìn nhau, trong ánh mắt đều thoáng hiện một tia rõ ràng.
Viện trưởng tiếp tục:
“Tiểu Quả chưa từng quay lại, nhưng trước đây vẫn gửi vài món đồ về. Ba tháng trước còn gửi về 500 đồng.”
Cố Ứng Châu lập tức hỏi:
“Gửi thứ gì về?”
“Huy chương!” An An chen vào, giọng đầy phấn khích. “Chị Tiểu Quả giỏi lắm! Tham gia thi nhảy giành được rất nhiều giải nhất! Mỗi lần đều gửi huy chương về đây. Chúng em ai cũng coi chị ấy là tấm gương. Chỉ là chị ấy bận quá nên không thể về thôi. Chị Tiểu Quả không thể nào làm chuyện xấu đâu!”
Lục Thính An mỉm cười, giọng ôn hòa:
“Bọn anh có thể xem mấy cái huy chương đó được không?”
An An gật đầu như gà mổ thóc:
“Em đi lấy!”
Cậu bé chạy vào phòng viện trưởng, lục lọi ở một ngăn tủ kín đáo cạnh đầu giường. Một lát sau, cậu ôm ra mấy chiếc hộp nhung đỏ nhỏ xíu, trịnh trọng đưa cho Lục Thính An.
“Là mấy cái này. Cẩn thận chút nha! Viện trưởng mỗi lần nhận được đều chỉ dám nhìn, không dám sờ vào.”
Cố Ứng Châu lập tức bắt được điểm mấu chốt:
“Em chưa từng chạm vào mấy cái huy chương này?”
An An ngơ ngác:
“Dạ chưa.”
Cố Ứng Châu không nhìn cậu bé nữa, quay sang viện trưởng:
“Chúng tôi muốn mang mấy chiếc huy chương này về kiểm tra một chút.”
Bởi cả hai đều biết rất rõ Tiểu Quả gần như chắc chắn là một trong những nạn nhân vụ cháy năm năm trước. Cô ấy không thể nào đi thi và giành huy chương sau khi đã chết. Vậy nên, việc có người giả mạo, cố tình gửi những vật này về để che giấu sự thật, là hoàn toàn có thể.
Quan trọng hơn, nếu viện trưởng và An An chưa từng chạm vào huy chương… thì khả năng còn giữ được dấu vân tay của hung thủ là cực cao. Đó sẽ là chứng cứ then chốt để nhận diện hắn.
Viện trưởng do dự hai giây, cuối cùng gật đầu:
“Cứ mang đi. Tôi biết việc của cảnh sát, người thường như chúng tôi không nên hỏi nhiều. Nhưng… nếu sau này tra ra được sự thật, mong hai cậu có thể cho tôi biết một chút.”
Lục Thính An trịnh trọng gật đầu:
“Được.”
Như chợt nhớ ra điều gì, viện trưởng lại bổ sung thêm một manh mối:
“Chuyện của Tiểu Quả, tôi không rõ hết. Có lẽ… các cậu nên tìm Vong Trần.”
“Vong Trần?”
Cái tên này nghe như của người tu hành.
An An lập tức chỉ vào một cậu con trai khác trong ảnh, một cậu thanh niên có vóc dáng gầy gò, tay đặt lên vai Tiểu Quả đầy thân thiết:
“Là người này! Anh Vong Trần. Anh ấy với chị Tiểu Quả thân nhau lắm, còn hơn cả ruột thịt. Sau khi Tiểu Quả đi học nhảy, anh ấy cũng vào thành phố làm ăn nhỏ. Mấy năm nay, may mà còn có anh ấy gửi tiền về giúp viện trưởng với em.”
Cậu thanh niên trong ảnh cao nhất nhóm, nhưng lại nhắm mắt trong cả hai bức ảnh.
Hỏi ra mới biết Vong Trần bẩm sinh đã mù, bị bố mẹ bỏ rơi, lúc nhỏ được người lang thang cưu mang. Đến khi người đó qua đời, cậu mới tìm được đến Cô Nhi Viện Hạnh Phúc. May mắn là nơi này không hắt hủi hay coi thường cậu. Trái lại, cậu được yêu thương và biết ơn. Cho đến bây giờ vẫn còn một mình cậu âm thầm hỗ trợ viện.
Khi rời cục, hai người họ cũng không mang gì theo, chỉ có ít tiền mặt. Lục Thính An lấy toàn bộ hơn hai ngàn trong người giao cho viện trưởng. Không nhiều, nhưng đủ để cho An An đi học, và cải thiện bữa ăn vài tháng.
Rời khỏi cô nhi viện, Cố Ứng Châu cầm mẩu giấy có địa chỉ của Vong Trần, trầm giọng hỏi:
“Có thể là cậu ta không?”
Biết Tiểu Quả c.h.ế.t rồi… Nếu là người yêu, rất có thể g.i.ế.c người để trả thù.
Lục Thính An lắc đầu:
“Không giống. Người mù hạn chế quá lớn. Cậu ta đến gương mặt Tống Nghi Chi còn chưa từng thấy thì g.i.ế.c kiểu gì?”
Bóng đè đêm qua cũng cho cậu một hướng khác loại trừ Vong Trần.
Giết Tống Nghi Chi… khả năng lớn là vì tình cảm, mâu thuẫn, và ích kỷ.
Vong Trần yêu Tiểu Quả, chắc chắn chẳng có liên quan gì đến Tống Nghi Chi. Mà Tống Nghi Chi… chắc cũng chưa từng coi cậu ta là đối thủ.
Nhưng trực giác của Lục Thính An lại mách bảo Vong Trần chắc chắn giữ vai trò then chốt trong vụ án này.