Trên phim X-quang, một bên trường phổi được chia thành ba vùng từ ngoại vi đến rốn phổi: vùng ngoài, vùng giữa và vùng trong.
Trong trường hợp bình thường, vùng trong và vùng giữa của phổi chứa vân phổi. Chúng chiếm đến 90% diện tích phổi và có thể nói là đại diện cơ bản cho phổi. Vân phổi là hình chiếu của mạch máu phổi, mạch bạch huyết, phế quản v.v. trên phim X-quang. Theo giải phẫu học, chúng ta biết các cấu trúc này của phổi giống như cành cây lớn phân nhánh, với các đường nét và nhánh đan xen nhau. Trên hình ảnh học, cảnh tượng hiện ra cũng tương tự như vậy, giống như hoa văn trên bề mặt vật thể, vì vậy được gọi là vân phổi.
Khi xảy ra tràn khí màng phổi, phổi bị ép lại. Vùng trong và vùng giữa của phổi tất nhiên sẽ dịch chuyển vào trong, và trên hình ảnh học có thể thấy rõ kết quả là vân phổi bị ép lại.
Những nơi không xuất hiện vân phổi, vùng đó trên phim X-quang sẽ trở nên sáng trong, tạo thành một đường ranh giới với khu vực có vân phổi, đó chính là đường tràn khí màng phổi. Đây là nguyên lý hình thành đường tràn khí màng phổi. Xét theo giải phẫu học, đường này cũng chính là đường màng phổi.
Tràn khí màng phổi tự phát là một ca bệnh thường gặp trên lâm sàng. Giống như trường hợp bệnh nhân tai nạn giao thông mà bạn học Tạ Uyển Oánh gặp phải lần đó, nếu không ở bệnh viện thì không có điều kiện này. Theo thông lệ, sau khi nghi ngờ ban đầu là tràn khí màng phổi thì việc chụp phim rồi mới xử lý là cần thiết.
Có thể nói, việc chụp phim và đọc phim có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc chẩn đoán tràn khí màng phổi. Phần tiếp theo sẽ giải thích rõ hơn về điều này.
Tìm đường tràn khí màng phổi trên phim X-quang là kiến thức y học thường thức về bệnh này. Sinh viên y khoa một khi đã đến lâm sàng và gặp phải bệnh này thì bắt buộc phải học và phải biết.
Ý nghĩa lớn nhất của đường tràn khí màng phổi nằm ở chỗ, dựa vào vị trí của đường này có thể đo được độ rộng của khoảng trống khí. Độ rộng khoảng trống khí là một danh từ riêng khác, như tên gọi của nó, là độ rộng của vùng không có vân phổi (vùng chứa khí hoặc dịch) ở phía ngoài đường tràn khí màng phổi (hình ảnh đường màng phổi sau khi bị lệch vị trí).
Đo lường độ rộng này có thể tiến thêm một bước nữa là tính toán tỷ lệ phổi bên bệnh bị xẹp là bao nhiêu.
Đây là một bảng đối chiếu sơ lược: Khi khoảng trống khí bằng một phần tư l*иg ngực bệnh nhân, phổi bị ép khoảng 35%. Khi khoảng trống khí bằng một phần ba l*иg ngực bệnh nhân, phổi sẽ bị ép đến 50%. Khi khoảng trống khí bằng một nửa l*иg ngực bệnh nhân, phổi bị ép 65%. Nếu khoảng trống khí đạt tới hai phần ba l*иg ngực bệnh nhân, đó là cảnh báo cực kỳ nguy hiểm: phổi bên bệnh của bệnh nhân đã bị ép tới 90%.
Ngụy Thượng Tuyền lắp bắp nói tiếp: "Hiện tại nhìn ra, đường màng phổi bên trái của bệnh nhân bị lệch vị trí, khoảng trống khí tính ra nhỏ hơn một phần ba l*иg ngực, cho nên phổi trái của bệnh nhân xẹp khoảng 40%."
Việc tính toán thể tích phổi bị ép này có ý nghĩa gì?
Các báo cáo kiểm tra đều nhằm mục đích cung cấp cơ sở để chỉ đạo và xây dựng chiến lược điều trị lâm sàng tiếp theo. Kết quả tỷ lệ phổi bị ép cũng nhằm mục đích này, làm bằng chứng y học để triển khai điều trị cho bệnh nhân.
Bác sĩ không thể điều trị cho bệnh nhân mà không có bằng chứng. Phải dùng biện pháp nào, điều trị ra sao, điều trị đến mức độ nào, tất cả đều dựa vào bằng chứng để hành động. Đây là điều mà bạn học Tạ đã nói với Hồ Hạo trước đó.
Bệnh tràn khí màng phổi tự phát này có chút đặc thù. Đối với bệnh nhân tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát, họ không có bệnh lý nào khác và độ tuổi mắc bệnh cơ bản thuộc nhóm thanh niên và trung niên. Hai đặc điểm này cho thấy nguyên nhân bệnh của bệnh nhân có thể là ngẫu nhiên. Cơ thể trẻ tuổi trao đổi chất mạnh mẽ, dễ tự phục hồi hơn so với bệnh nhân lớn tuổi. Những yếu tố này quyết định đây có thể là một loại bệnh có thể tự phát rồi tự khỏi.