Đối với câu hỏi này, Hoàng Chí Lỗi muốn gãi đầu. Tào sư huynh bế đứa trẻ lên mà không nói gì, anh cũng không rõ nguyên nhân là gì nên không biết trả lời thế nào.
Nói đứa trẻ này bệnh nặng thì bệnh nặng phải đưa vào phòng cấp cứu chứ không phải đưa vào văn phòng. Trong văn phòng thậm chí không có cả bình oxy.
Một đám danh y tranh luận không phải là tiêm thuốc cấp cứu cho bệnh nhân hay đặt nội khí quản, ép tim, sốc điện…… mà là có nên thụt tháo hay không.
“Chỉ thụt tháo thì vô ích.” Khương Minh Châu nói, “Nếu không phẫu thuật viêm ruột thừa, có thể thử dùng nội soi đại tràng để kiểm tra đường ruột và ruột thừa. Nội soi đại tràng kiểm tra chính xác và trực quan hơn CT, có thể phân biệt rõ ràng xem có phân còn sót lại trong ruột hay không, nếu có thì lấy ra, rồi thụt rửa, hạ sốt.” (Vào thời điểm đó, chưa có kỹ thuật ERAT nội soi điều trị viêm ruột thừa ngược dòng. Nguyên lý phẫu thuật ERAT cũng tương tự như phương pháp mà Khương Minh Châu đề cập, thông qua nội soi để kiểm tra ruột thừa và lấy phân, thụt rửa để điều trị viêm ruột thừa, chủ yếu nhắm vào viêm ruột thừa do sỏi phân.)
Tình trạng của cậu bé Tạ Hữu Thiên quả thực nghi ngờ viêm ruột thừa do phân.
“Cô quá vội vàng, vừa mới thụt tháo xong chưa biết hiệu quả thế nào, đợi tình hình thay đổi rồi tính.” Bác sĩ Giang của Khoa Ngoại Tổng Quát I phản đối đề xuất của cô.
“Tôi không vội. Tôi nghĩ, nếu quyết định phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa cho đứa trẻ này, nếu muốn thử nhiều phương pháp khác thì có thể chuẩn bị trước cho nội soi tiêu hóa.” Khương Minh Châu nói. Bác sĩ nội khoa cẩn thận hơn, chủ trương phòng ngừa chu đáo. Vu Học Hiền đồng tình với lời cô nói nghĩ, Ừ.
Các bác sĩ ngoại khoa nghe hai người Khoa Tiêu Hóa Nội nói cũng không đồng tình, phản bác:
“Nội soi kiểm tra thì được, chứ điều trị thì bình thường thôi, ruột thừa là vị trí rất đặc biệt. Nội soi muốn đến được ruột thừa rất khó. Đứa trẻ này chắc chắn sẽ không hợp tác, phải gây mê mới làm được.”
“Phương pháp nội soi kiểm tra này cũng không khác gì điều trị bảo tồn. Nếu viêm nhẹ, điều trị bảo tồn thì viêm sẽ tự khỏi. Đợi lát nữa phải lấy máu xét nghiệm cho đứa trẻ này. Nếu viêm nặng, chỉ thụt rửa vài lần thì làm sao có thể loại bỏ hoàn toàn viêm. Kháng sinh muốn có hiệu quả cũng phải đủ liệu trình. Nặng hơn nữa, Khoa Ngoại chúng tôi rạch mủ ra để dẫn lưu và rửa, không thể khỏi ngay trong một lần mà phải nhiều lần. Vì vậy, ruột thừa rất dễ tái phát, cuối cùng chỉ có thể phẫu thuật cắt bỏ là xong chuyện.” (Phẫu thuật ERAT trong tương lai cũng có nhược điểm này, có yêu cầu về chỉ định.)
Muốn giữ lại ruột thừa là rất khó.
Niềm tin hiện nay của Khoa Ngoại vào điều trị bảo tồn chủ yếu dựa trên việc bệnh tình của đứa trẻ này được phát hiện tương đối sớm.
Bị Khoa Ngoại mắng, Khương Minh Châu thở hổn hển vài hơi, nghĩ lại, trong lòng vẫn kiên trì quan điểm của Khoa Nội.
Khoa Nội ở đây không chỉ có Khoa Tiêu Hóa Nội, bác sĩ Lâm của Khoa Tim Mạch Nội lên tiếng: “Nhịp tim bệnh nhân hơi nhanh, tần số hô hấp cũng khá nhanh, tình trạng này rất khó nói là do sợ hãi gây ra hay không. Vì cậu bé bị đau, có sốt, những điều này đều sẽ làm tăng nhịp tim và tần số hô hấp. Nếu muốn yên tâm thì cho cậu bé nhập viện theo dõi, được không?” Nói xong, anh nhìn sang Cận Thiên Vũ.
Cận Thiên Vũ không nghĩ đơn giản như đồng nghiệp, chỉ là vấn đề thụt tháo mà cãi nhau như vậy, nếu đứa trẻ này nhập viện thì sẽ an bài vào khoa nào.
Hơn nữa, Khoa Tim Mạch Ngoại có ý kiến gì không?
Phó Hân Hằng không lên tiếng.
Chu Hội Thương đẩy kính: “Bác sĩ điều trị chính vẫn không nói gì à?”
Các khoa đều đã bày tỏ quan điểm, để bác sĩ điều trị chính đưa ra ý kiến cuối cùng là quy trình đúng đắn.