Đại ca ta? Đó dĩ nhiên là bậc anh hùng tuấn kiệt, trên đời khó tìm ai sánh bằng.
“Ca ta mười tuổi ra chiến trường, mười ba tuổi c.h.é.m đầu giặc. Mùa xuân năm ngoái, chỉ mang theo ba ngàn tinh binh, đánh tan đại quân gần vạn người của Bắc Khương…”
Ta vừa giơ tay đếm, vừa kể lại từng chiến công. Ôn Chiêu chống cằm lắng nghe, chăm chú không rời.
Chỉ có Giang Phù bĩu môi, vẻ chán chường lộ rõ:
“Trong cung chẳng thiếu võ sư, sao cứ phải là ca ca ngươi vào dạy chứ?”
Một lời ấy khiến tất cả chúng ta lặng đi.
Ta bị nhốt trong cung là chuyện chẳng thể thay đổi, nhưng đại ca thì khác… Làm gì có lý nào một thiếu niên anh hùng như huynh, lại phải bỏ biên thùy về đây dạy mấy tiểu thư múa thương?
Nhưng rốt cuộc… huynh vẫn về.
Đại ca xoa đầu ta, nở nụ cười chua chát: “Là vì muội muội bảy năm chưa gặp, cũng vì huynh đệ lớn lên cùng ta – Ôn Dự.”
Thái hậu có ý cho nữ nhi tập võ, nhưng chúng ta lúc ấy đã mười bốn tuổi. Các tiểu thư thế gia trong kinh ai chẳng được nuông chiều, nào mấy ai chịu nổi mùi gió sương?
Vậy nên, viện Thượng Học ngày ấy, vốn từng ríu rít náo loạn, cuối cùng chỉ còn lại ba đứa con gái.
Ôn Chiêu là công chúa, sinh ra trong hoàng cung, không có chốn để về.
Ta là con út nhà Thẩm, từ nhỏ nuôi trong cung, cũng chẳng có đường ra.
Chỉ có Giang Phù – đích nữ của Giang Tể tướng – là người ra vào tự do, vậy mà nàng ta cũng chẳng chịu rời khỏi nơi này.
Tập thương khổ cực, mới mấy chiêu Giang Phù đã khóc mếu đòi cha đòi mẹ. Thay vào đó, nàng ngồi bên cửa sổ có cành hạnh vươn ngang, vẽ tranh từng ngày trôi qua.
Trong tranh nàng, ta vận hồng y, tóc đen cao búi, cười rực rỡ trong lúc giật lấy thương của ca ca mà chạy.
Trong tranh nàng, đại ca ta dáng dấp hiên ngang, khí khái lẫm liệt, đứng cạnh bên nhìn bọn ta đùa, như tùng cao bất khuất giữa núi tuyết.
Còn Ôn Chiêu, vẫn dịu dàng lanh lợi, như nai nhỏ linh hoạt, váy áo vén cao, luôn chạy theo bóng huynh ấy, nét mặt không giấu nổi niềm vui.
Mỗi mùa xuân thu trôi qua, Giang Phù lại vẽ nhiều thêm.
Người nàng vẽ nhiều nhất, lại là Ôn Dự — hoàng đế, cũng là người cùng ta luyện thương năm ấy.
Là trưởng tử của tiên đế, Ôn Dự từ nhỏ đã được rèn dũa như thái tử. Đối với ta, gương mặt ấy vốn quá quen, nên chẳng có gì lạ lẫm.
Nhưng trong mắt Giang Phù, mỗi lần vẽ đều là vẻ si mê trọn vẹn.
Chỉ vì năm ấy, khi nàng chạy tìm diều treo trên cành cây, chính Ôn Dự đã thay nàng lấy về.
Từ ấy, nàng không còn “cha ta cha ta” nữa, mà luôn nhắc đến “hoàng huynh của ta” — người thiếu niên mặt như ngọc, khí chất thanh nhã.
Nàng vẽ đế vương tuổi mười bảy trong áo long bào hoa mỹ, giữa vườn thượng uyển đầy hoa rơi loạn ánh.
Nàng vẽ mùa xuân rực rỡ, khi Ôn Dự cầm thương luyện võ, như ngọc sáng rạng rỡ giữa gió xuân.
Phải rồi… tuổi xuân của thiếu nữ, người nàng ngưỡng mộ, nên là như thế.
Một vị hoàng đế trẻ trung, bảy năm đăng cơ chưa từng xông pha sa trường, nên là như thế.
Nhưng khi đặt bức tranh xuống, ta ngẩng đầu theo ánh mắt Giang Phù —
Giữa sân cung, Ôn Dự đang cùng đại ca ta giao đấu, thương trong tay đã luyện đến xuất thần nhập hóa.
Thế nhưng, trong từng chiêu từng thức… ta rõ ràng nhìn thấy sát ý ẩn sâu trong đáy mắt hắn.
Là sát ý từng ngụp lặn trong biển m.á.u núi xương.
Thương hắn nhắm về nơi đâu? Hận hắn từ đâu mà đến?
Ta bỗng lật hết sử sách trong viện Thượng Học. Từng trang từng dòng đều là:
— Công cao chấn chủ.
— Thỏ c.h.ế.t thì chó săn bị nấu.
— Lương thần tất mệnh đoạn.
Là cha ta và huynh trưởng công lao hiển hách chăng?