Khai Phá Cổ Mộ

Chương 167: Mãi mãi là động Mạt Cao .



 

Vì đã lấy được xá lợi, chúng tôi định lập tức lên đường quay về hội hợp với lão Phong và mọi người. Thế nhưng đúng lúc chuẩn bị xuất phát, phía bên kia đột nhiên vang lên tiếng hét xé ruột xé gan của Nguyệt Nguyệt!

 

Chỉ thấy dưới tấm áo lông thú của Điêu gia, một vũng m.á.u đỏ thẫm không ngừng lan rộng…

 

“Làm sao lại thế này? Tại sao lại thế này? Sao cha lại bị thương? Cha bị thương từ khi nào?”Nguyệt Nguyệt liên tục nghẹn ngào hỏi, mỗi câu như đập thẳng vào n.g.ự.c Điêu gia.

 

Chúng tôi vội vàng chạy tới. Lão Giang vén góc áo khoác của Điêu gia lên, chỉ thấy trên bụng và n.g.ự.c ông có mấy vết thương chí mạng. Chỉ là trước đó Điêu gia đã dùng nội lực thâm hậu đè nén tất cả, nên chúng tôi không ai phát hiện.

 

“Nguyệt Nguyệt, nghe cha nói.” Điêu gia đưa tay ra, Nguyệt Nguyệt lập tức ghé sát mặt vào.

 

Cô vừa khóc vừa gọi:

 

“Cha, không sao đâu… Cha sẽ không sao đâu… Chúng ta vừa mới đoàn tụ, cha sẽ không nỡ bỏ lại con mà, đúng không?”

 

Khuôn mặt Điêu gia đã hoàn toàn không còn chút huyết sắc. Không thể tin nổi ông đã gắng gượng đi đến tận bây giờ mà chúng tôi chẳng hay biết.

 

Ông vuốt nhẹ má Nguyệt Nguyệt, ánh mắt chan chứa không nỡ rời:

 

“Con là đứa trẻ ngoan… Cha sống không được bao lâu nữa. Trước lúc c.h.ế.t mà được nghe con gọi một tiếng cha… cuộc đời Cố Bằng Thiên này… đã không còn gì phải hối tiếc.”

 

“Nguyệt Nguyệt, trong căn nhà cũ… dưới bức ảnh chụp ba người chúng ta: con, mẹ và cha có một chiếc hộp rất quan trọng. Bên trong là tín vật của Tẩu Sa Môn.”

 

“Con muốn giải tán môn phái, hay muốn truyền lại vị trí Tổng thủ lĩnh cho ai… cha đều nghe theo con.”

 

Nguyệt Nguyệt nắm c.h.ặ.t t.a.y Điêu gia: “Không… đừng đi… Con chỉ còn mỗi mình cha… Cha ơi, đừng mà…”

 

“Ngoan… Cha phải đi tìm mẹ con rồi.”

 

Giọng Điêu gia yếu đến như hơi gió.

 

“Cả đời này cha có lỗi với con… cũng thẹn với bà ấy… Cha nhớ bà ấy lắm.”

 

Ông bỗng đưa tay lên bầu trời, như nhìn thấy một ai đang đứng đó. “Vợ… em vẫn đẹp như ngày đầu gặp gỡ…”

 

Khoảnh khắc ấy, tay ông rơi xuống. Nguyệt Nguyệt gào lên tiếng khóc xé lòng:

 

“Cha! Cha ơi!”

 

Vị anh hùng ngang dọc nửa đời cuối cùng cũng đặt xuống gánh nặng của Tẩu Sa môn, để đi tìm người phụ nữ mà ông yêu nhất. Và ngay giây phút ấy, Nguyệt Nguyệt cũng thật sự tin: mẹ cô chưa bao giờ nói sai. Cha cô vẫn luôn là người đàn ông chung tình và sâu nặng, chưa từng thay lòng đổi dạ.

 

Tôi đề nghị an táng t.h.i t.h.ể Điêu gia ngay nơi tháp Phật tan biến. Điêu gia nửa đời tung hoành Tây Bắc, được yên nghỉ cùng vùng đất ấy có lẽ mới là tâm nguyện lớn nhất của ông.

 

“Không. tôi muốn đưa cha về… để hợp táng với mẹ.”

 

Nguyệt Nguyệt lau nước mắt, ánh nhìn kiên định:

 

“Họ không được sống bên nhau lâu… thì ít nhất sau khi c.h.ế.t cũng phải được vĩnh viễn bên nhau.”

 

Dù sao chúng tôi cũng sắp lên đường, chỉ cần di chuyển nhanh, chắc có thể đưa t.h.i t.h.ể ông về trước khi phân hủy. Dù gì lạc đà, Ô Nha và Khổng Tước đều còn đó.

 

Không lâu sau, chúng tôi hội ngộ với nhóm của lão Phong. Thấy t.h.i t.h.ể Điêu gia, Lạc Đà òa lên khóc lớn, còn Ô Nha lại bình tĩnh bất ngờ:

 

“Không được. Tuyệt đối không thể để người ngoài biết Tổng thủ lĩnh đã c.h.ế.t. Chúng ta phải tuyệt đối giữ bí mật.”

 

“Nếu không, Tẩu Sa môn sẽ gặp đại họa diệt môn!”

 

Khi Khổng Tước và những người khác nhìn sang chúng tôi, tất cả chúng tôi lập tức giơ tay thề sẽ không tiết lộ bí mật.

 

Lạc Đà vẫn không nén nổi đau thương. Khổng Tước bất ngờ tát anh một cái:

 

“Khóc cái gì?! Lẽ nào ngươi muốn phá hủy cơ nghiệp mà Tổng thủ lĩnh khổ cực xây dựng? Nhớ kỹ Tổng thủ lĩnh vẫn còn sống, đang bị giam giữ. Một giọt nước mắt cũng không được rơi!”

 

Lúc này, Khổng Tước hít mũi, nhìn Nguyệt Nguyệt:

 

“Đại tiểu thư, không biết bây giờ gọi như vậy còn thích hợp không…”

 

“Tổng thủ lĩnh trước đây đều là bất đắc dĩ… là vì…”

 

Chưa kịp nói hết, đã bị Nguyệt Nguyệt cắt lời: “Ta biết. Ta biết hết rồi. Cha vẫn luôn yêu ta và mẹ.”

 

Nhìn Nguyệt Nguyệt lại sắp khóc nghẹn, tôi liền tóm tắt toàn bộ chuyện trong tháp Phật cho bọn họ nghe.

 

Nghe xong, Lạc Đà, Ô Nha và Khổng Tước đồng loạt quỳ một gối trước Nguyệt Nguyệt:

 

“Tiểu thư có thể tha thứ cho Tổng thủ lĩnh… thật là phúc của Tẩu Sa môn! Từ nay, ba người chúng tôi xin nguyện theo sát Đại tiểu thư, không hề oán thán!”

 

Họ hoặc là được Điêu gia cứu mạng, hoặc là lớn lên dưới sự dạy dỗ của ông. Nghĩa nặng hơn núi. Ông trong mắt họ là thầy, cũng là cha.

 

Cả đời này họ nguyện liều c.h.ế.t vì ông, dâng mạng cho môn phái. Nay người họ trung thành đã mất, thì nghĩa ấy sẽ được nối tiếp lên người con gái của Điêu gia-Nguyệt Nguyệt.

 

Nghĩ đến việc Điêu gia đã chăm sóc tôi suốt dọc đường, cổ họng tôi cũng nghẹn lại.

 

Nếu không có sự chỉ dẫn và giúp đỡ của ông, chúng tôi căn bản không thể tìm thấy tháp Phật, càng không thể dễ dàng mang được xá lợi ra ngoài. Lão Giang cũng thay mặt tôi nói với Nguyệt Nguyệt và nhóm Lạc Đà:

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

 

“Yên tâm, các người đã giúp Kỳ Lân một ân tình lớn như vậy, sau này nếu cần gì, cứ nói thẳng!”

 

Về sau, không biết Khổng Tước và mọi người dùng cách gì, mà tin Điêu gia qua đời hoàn toàn không truyền ra giang hồ. Thậm chí, rất nhiều người còn “tận mắt nhìn thấy” Điêu gia.

 

Dĩ nhiên đó là chuyện sau này…

 

Lúc này tôi mới phát hiện lão Phong đang bị mắng bên cạnh. Trong mắt Nữ Oa Tiểu Tiểu, ông ta đúng thật trông như một lão đồ đệ tội nghiệp, ỉu xìu đi theo phía sau, cúi đầu chịu trận.

 

“Bảo đừng uống rượu, bảo đừng gây chuyện, vậy mà còn để người ta bỏ độc! Bảo tôi biết giấu mặt vào đâu đây?”

 

“Về đến nhà rồi, phạt ngươi ba tháng không được đụng một giọt rượu!”

 

Lão Phong lập tức mặt mày xám ngoét: “Đó chẳng phải muốn lấy mạng lão sao? Một tháng thôi, một tháng được không?”

 

“Được! Vậy ta phạt thêm một tháng nữa, thành bốn tháng.”

 

Nữ Oa Tiểu Tiểu nghiến răng nói.

……

 

Muốn để lão Phong bỏ rượu tất nhiên đâu đơn giản. Suốt quãng đường là tiếng ông ta than vãn, van xin, cố gắng mặc cả.

 

Chúng tôi rời khỏi Sa mạc Vong Linh với tốc độ nhanh nhất. Nhìn lại biển cát mênh m.ô.n.g ấy, không biết đời này chúng tôi còn có cơ hội chứng kiến sự phồn thịnh trở lại của Con đường Tơ Lụa hay không.

 

Trở về Ngọc Môn Quan, cũng là lúc chúng tôi phải chia tay A Di Mộc Hãn.

 

Không ngờ con lạc đà trắng gặp ở cạnh cơn bão đen lần trước thật sự là con lạc đà đầu đàn mà ông nuôi. Thấy chúng tôi còn sống trở về, bà lão mừng đến rưng rưng. Khi nhìn thấy di vật mà A Di Mộc Hãn mang về, bà lão òa khóc.

 

Họ cuối cùng cũng tìm được đứa con cả của mình, chỉ tiếc rằng… anh vĩnh viễn nằm lại trong sa mạc.

 

Tối hôm đó, A Di Mộc Hãn và vợ ông làm bao món ngon để đãi chúng tôi: thịt nướng cành liễu đỏ, mì kéo, cả dê nướng nguyên con… như lời cảm tạ vì những gì chúng tôi đã làm.

 

“Không, phải là chúng tôi cảm ơn ông mới đúng. Nếu không có ông dẫn đường, trong sa mạc chúng tôi không biết đã c.h.ế.t bao nhiêu lần rồi.”

 

Mọi người nâng ly kính A Di Mộc Hãn.

 

Không biết nói sao mà lại nhắc đến con trai—người đã vĩnh viễn hóa cát bụi trong sa mạc. Hai vợ chồng lập tức ôm nhau, khóc nức nở. Ai khuyên cũng không được. Tôi đành nói:

 

“Chẳng phải hai người vẫn còn cậu con trai thứ hai đó sao? Chỉ cần nó còn sống, thì vẫn còn niềm hy vọng mới. Câu chuyện ‘con thuyền trên sa mạc’ cũng sẽ được truyền mãi không ngừng.”

 

Vẻ mặt của A Di Mộc Hãn cuối cùng cũng dịu lại.

 

Ăn uống no say, ngủ một giấc yên ổn, chúng tôi cuối cùng cũng đến được động Mạc Cao. Dù thế nào, nơi này chúng tôi đều nhất định phải ghé. Có lẽ vì đạo sĩ áo đen…

 

Tôi muốn thay anh nhìn lại Đôn Hoàng một lần, nhìn lại vẻ đẹp kỳ vĩ của Mạc Cao . Điều anh không yên lòng nhất, chẳng phải chính là nơi này sao?

 

Nghe chúng tôi thật sự mang được xá lợi bảy sắc trở về, Thường Thư Hồng vui như một đứa trẻ, nắm c.h.ặ.t t.a.y chúng tôi, miệng liên tục nói:

 

“ cứu rồi… cứu được rồi…”

 

Đúng vậy. Thường Thư Hồng biết, Đôn Hoàng đã được cứu. Ông cũng sẽ tiếp tục ở lại đây, gìn giữ mảnh đất thiêng trong lòng cả đời.

 

Khi chia tay, tôi không biết mình hoa mắt hay ảo giác, lại mơ hồ nhìn thấy trên vách động Mạc Cao , cạnh Thường Thư Hồng đang vẫy tay, xuất hiện vài bóng người nữa.

 

Đó là Bạch Băng, Tiểu Vũ… những người đã hy sinh.

 

Phía sau họ, tôi thấy càng nhiều hình bóng hơn, những thành viên đội khảo cổ đã nằm lại di tích Âm Khư: Bạch Thủy, Cầu Tú Tú, Lỗ Bảo Bình… Tất cả đều mỉm cười, bình yên như gió xuân, tiễn chúng tôi rời đi.

 

Dưới chân một pho tượng Phật, tôi còn nhìn thấy một đạo sĩ già yếu, đang dùng chổi quét từng lớp bụi. Bên cạnh ông, một người mặc đạo bào đen đứng lặng lẽ, chính là Vương Thừa Phong.

 

Hắn sẽ mãi mãi ở lại, cùng cha mình bảo vệ động Mạc Cao . Giây phút đó, tất cả những con người ấy hòa vào nhau, trở thành thần hộ mệnh vĩnh hằng của mảnh đất Hoa Hạ.

 

Nhìn cảnh tượng ấy, nước mắt tôinvốn cố nén suốt từ nãy cuối cùng không thể kìm được, trào ra. Tôi mở cuốn sổ ghi chép mang theo bên mình, lật đến trang thứ hai, viết xuống đoạn này:

 

“Năm 1935, đây là lần thứ hai tôi theo Kỳ Lân làm nhiệm vụ và mang về bảo vật quốc gia thứ hai trong đời :xá lợi lưu ly bảy sắc!

Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️

 

Giữa sa mạc Đôn Hoàng mênh mông, tôi thấy được Phật quang trên Con đường Tơ Lụa, thấy được vẻ đẹp của lòng người, và chứng kiến biết bao hy sinh không tiếc thân mình.

 

Cảm ơn… những con người vì Hoa Hạ mà rơi lệ.”

 

Về sau, Viện Nghiên cứu Đôn Hoàng cuối cùng cũng được thành lập, và chính Thường Thư Hồng trở thành viện trưởng đầu tiên!

 

Ông dành trọn nửa đời còn lại của mình để làm hai việc: một là tu sửa bích họa, hai là bảo vệ văn vật.

 

Nhờ vậy mà Mạc Cao mới có thể lưu truyền cho hậu thế.

 

Nhưng lạ một điều: điều lệ đầu tiên ông đưa ra khi trở thành viện trưởng là “Tất cả những ai đến thăm động Mạc Cao đều phải đứng trước Phật thất, mặc niệm một phút.”

 

Khi ấy, các tờ báo đều suy đoán: Là để tỏ lòng kính Phật?

 

Hay để tôn trọng thành quả khảo cổ?

 

Chỉ riêng tôi biết… ý nghĩa thật sự phía sau điều đó là gì. Đó là để mọi người cùng tưởng niệm những người đã hy sinh trên con đường bảo vệ bảo vật quốc gia.

 

Bạn vô danh, nhưng ta xin cúi đầu kính lễ.