Khai Phá Cổ Mộ

Chương 155: Một niệm thành Phật.



 

Lúc ấy, Điêu gia giơ tay chỉ về phía trước, nói: “Các người xem, chỗ đó kìa!”

 

Theo hướng ông ta chỉ, chúng tôi nhìn thấy ở trung tâm của tòa Phật cung, lại có một cỗ máy khổng lồ đến mức khiến tất cả chúng tôi đều không thể tưởng tượng nổi.

 

Cỗ máy ấy được tạo thành từ vô số linh kiện thép, từng khớp đòn bẩy nối tiếp chuyển động, vận hành liên tục không ngừng. Đặc biệt, bánh răng lớn nhất ở giữa cao đến bằng một căn phòng, lúc này vẫn đang xoay tròn, phát ra những tiếng “tích tắc, tích tắc” đều đặn.

 

Cứ vài giây, bánh răng lại xoay đi một nấc.

 

“T… tại sao ở đây lại có nhiều cơ quan như thế này?” tôi lắp bắp hỏi.

 

Ngân Linh tròn mắt, ngây thơ chỉ vào bánh răng lớn nhất: “Đây là ám khí à? Có khi nào nó sẽ đột nhiên đè bẹp chúng ta không?”

 

Lão Giang lắc đầu, trầm giọng nói:

 

“Nếu ta đoán không lầm, nơi này chính là phòng cơ quan của toàn bộ Phật tháp hay nói cách khác là phòng điều khiển. Tất cả những mật đạo, mê cung mà chúng ta đã trải qua trước đó, nguồn năng lượng của chúng đều xuất phát từ đây.”

 

Tôi kinh ngạc hỏi:

 

“Nhưng đã qua mấy nghìn năm rồi, sao nó vẫn còn hoạt động được?”

 

Lão Giang bước lên, quan sát kỹ, rồi khi thấy trên bánh răng dính đầy những hạt cát vàng óng, ông liền hiểu ra:

 

“Bên dưới bánh răng này chắc chắn còn vô số bánh nhỏ hơn, nối liền với các tầng cát chảy bên dưới sa mạc Vong Linh! Chính nhờ dòng cát không ngừng đó mà cơ quan trong tháp luôn duy trì được sức mạnh, chẳng khác gì guồng nước vậy.”

 

Hóa ra ngọn tháp Phật này đã dựa vào sức mạnh của tự nhiên để sừng sững suốt nghìn năm!

 

Tôi càng thêm khâm phục trí tuệ của người xưa, những con người chăm chỉ, thông tuệ ấy, chính nhờ biết mượn sức thiên nhiên mà có thể tạo nên biết bao kỳ tích không tưởng…

Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️

 

Như Tượng binh mã, như Vạn Lý Trường Thành.

 

Chúng tôi bước vào phòng cơ quan, phát hiện bốn phía tường đều được chạm khắc phù điêu bằng bạch ngọc xa hoa! Phải biết rằng, thông thường tường chỉ được vẽ bằng sơn màu; ngay cả trong lăng mộ của các bậc đế vương, cùng lắm cũng chỉ khắc phù điêu bằng đá, tốn công hàng năm trời. Vậy mà nơi đây lại dùng ngọc trắng ròng rã tạc thành, quả thật là dâng hiến mọi thứ quý giá nhất cho tòa Phật tháp này.

 

“Ngọc là biểu tượng của sự tinh khiết, trong sáng không tì vết chắc hẳn dùng để ca ngợi phẩm hạnh cao cả của Lạc hoà thượng.” Giáo sư Tưởng Vạn Lý giải thích.

 

Lão Giang thì không rời mắt khỏi những bức phù điêu ấy. Chúng sinh động đến mức như đang kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện mới.

 

Lúc này, chúng tôi cảm thấy mình đã đến rất gần với xá lợi. Bởi khác với những bức phù điêu trước mô tả cảnh Nhạc hòa thượng khuyên mười sáu nước dừng chiến tranh, những phù điêu ở đây lại thuật lại cả cuộc đời của ông.

 

Dưới mỗi bức đều có dòng chữ Tây Vực, toàn những lời tán tụng và tưởng niệm vị thánh nhân này.

 

Tôi và lão Giang cùng quay sang nhìn Giáo sư Tưởng người am hiểu chữ viết Tây Vực và học thức uyên thâm, là người thích hợp nhất để giải thích.

 

Giáo sư nheo mắt xem liên tục mấy bức, rồi khẽ thì thầm: “Thì ra là vậy…”

 

Lão Giang nóng ruột định hỏi, thì thấy ông ta nuốt nước bọt, suy nghĩ giây lát rồi chậm rãi nói:

 

“Lạc Hòa thượng vốn là một tiểu tăng ở Tây Vực. Ông từng phát đại nguyện, nguyện đi khắp Trung Nguyên, đến mọi nơi ánh mặt trời soi rọi. Hôm ấy, khi sư phụ ông lâm chung, trao cho ông một con ngựa và một cây thiền trượng thất bảo, dặn lại lời trăn trối: ‘Nhạc, hãy giúp vi sư tìm được Bồ Tát, mang cây thiền trượng này trao cho người.’”

 

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

“Từ đó, Lạc hòa thượng một mình rong ruổi khắp Tây Vực. Ông đã thấy vô số tượng Phật, nhưng vẫn chưa bao giờ được nhìn thấy chân thân của Bồ Tát.”

 

“Liệu Bồ Tát có thật sự giáng trần không?” ông ngước nhìn trời, lẩm bẩm hỏi. “Có lẽ do ta tu hành chưa đủ, nên Bồ Tát không muốn gặp ta chăng?” ông tự an ủi mình như thế.

 

Cho đến khi ông theo con đường Tơ Lụa cổ, vượt qua sa mạc Vong Linh, qua cửa Ngọc Môn, tiến thẳng đến Đôn Hoàng thì dưới chân núi Minh Sa, ông chợt nhìn thấy Phật quang rực rỡ ngàn trượng.

 

Ánh Phật ấy bao trùm cả vùng đất, giống hệt cõi Phật phương Tây trong mộng của ông. Có lẽ đó chính là dấu hiệu báo trước Bồ Tát sắp giáng thế…

 

Khoảnh khắc ấy, Lạc hòa thượng bỗng quyết định dừng lại. Ông muốn ở đây xây một hang Phật để nghênh đón sự giáng lâm của Bồ Tát.

 

Hoặc có thể nói, suốt dọc đường đi, Lạc đã thấy vô số tượng Phật, có tượng mỉm cười nở hoa, có tượng nằm nghiêng thanh tĩnh, có tượng đội vương miện vàng muôn hình vạn trạng, đến từ khắp các dân tộc

 

Nhưng ông lại muốn tự tay tạc nên một pho tượng Phật, để xem vị Bồ Tát trong lòng mình thật ra có dung mạo như thế nào.

 

Có lẽ như vậy, ông mới có thể hoàn thành tâm nguyện của sư phụ.

 

Thế nhưng khi ấy Tây Vực loạn lạc triền miên, dân chúng lầm than, sinh linh đồ thán. Nói gì đến việc xây động Phật ngay cả việc ngăn cho núi Minh Sa không nhuộm m.á.u tươi cũng là điều xa vời.

 

Những người dân chạy nạn qua lại không dứt, gương mặt đau khổ, tuyệt vọng như thể tận thế đang đến gần.

 

Và chính khi ấy, trong lòng Lạc hòa thượng bỗng nảy sinh một ý nghĩ: “Nếu ta có thể thuyết phục mười sáu vị quân vương kia ngừng chiến, chẳng phải thiên hạ sẽ thái bình sao?”

 

Ý nghĩ ấy quá táo bạo cũng quá dũng cảm.

Thế nhưng, với tinh thần hy sinh và lòng từ bi vô hạn, Lạc hòa thượng đã miệt mài nhiều năm trời, bôn ba khắp mười sáu nước, cuối cùng giúp Tây Vực đón được một ngày thái bình thực sự.

 

Ngày ấy, nước trong hồ Nguyệt Nha lại trở nên trong veo, không còn vẩn đục bởi m.á.u tanh; không khí trên núi Minh Sa cũng không còn mùi tử khí; những đàn chim từng bay đi đã quay trở lại; Con đường Tơ Lụa lại nhộn nhịp kẻ buôn người bán; và trên gương mặt dân chúng, nụ cười đã nở rộ trở lại.

 

Các quốc vương sai vô số thợ thủ công cùng Lạc hòa thượng khai tạc thêm nhiều hang động thờ Phật hơn nữa. Nơi ấy, về sau được đặt tên là động Mạc Cao.

 

Khi ấy, Trung Nguyên đang trong thời kỳ đen tối nhất, nhưng cũng là lúc Phật pháp được truyền bá sâu rộng nhất. Thế rồi, khi động Mạc Cao được hoàn thành, các quân vương lại tranh nhau mời Lạc hòa thượng trở về nước mình, hứa sẽ dựng cho ông ngôi chùa nguy nga nhất, phong làm quốc sư, để được toàn dân kính ngưỡng, hưởng vinh hoa tột đỉnh.

 

Nhưng Lạc hòa thượng đều từ chối hết.

 

Ông chỉ lặng lẽ chống thiền trượng, đứng trên đỉnh Mạc Cao hướng mắt nhìn ra sa mạc mênh m.ô.n.g phía xa, trầm mặc suy tư. Tây Vực đã được yên bình, nhưng trong lòng ông vẫn còn một nguyện vọng chưa hoàn thành chính là nguyện ước ban đầu ấy.

 

“Bồ Tát ơi, Bồ Tát ơi… rốt cuộc ngài trông như thế nào?”

 

Lạc hòa thượng vẫn chưa buông bỏ chấp niệm tìm kiếm Bồ Tát, vẫn nhớ mãi lời trăn trối của sư phụ trước khi mất. Ngay lúc ấy, có một người phụ nữ dắt theo đứa con nhỏ đi qua dưới chân núi Minh Sa. Khi ngẩng đầu nhìn lên thấy bóng dáng Lạc hòa thượng đứng trên đỉnh Mạc Cao, cô bé liền tròn xoe mắt, kéo tay mẹ, reo lên:

 

“Mẹ ơi, mẹ ơi! Đó có phải Bồ Tát hiển linh không? Con hình như thấy Bồ Tát rồi!”

 

Người mẹ ngước nhìn theo ánh mắt con, rồi bỗng xúc động đến rưng rưng thì ra là Lạc hòa thượng. Dân chúng mười sáu nước, làm gì có ai không biết vị ân nhân vĩ đại ấy. Người phụ nữ liền nói với con:

 

“Đó là Lạc hòa thượng, cũng chính là vị Bồ Tát lớn nhất trong lòng muôn dân chúng ta.”

 

“Nếu không có ngài, Tây Vực đã chẳng có ngày thái bình; cha con đã không thể trở về từ chiến trường; còn con… cũng chẳng có mặt trên đời này.”

 

“Chính ngài đã siêu độ linh hồn người đã khuất, cứu chúng ta thoát khỏi bể khổ, lấy chúng sinh làm tâm, phổ độ muôn loài, mang lại sự sống và hy vọng.”

 

Khoảnh khắc ấy, cô bé như hiểu ra điều gì. Bé nghiêm trang chắp tay, cúi đầu lạy ba lạy về phía Lạc hòa thượng. Và ngay lúc đó, bức phù điêu cũng tiến đến khung cảnh cuối cùng.