Khai Phá Cổ Mộ

Chương 121: Bắc Lương Vương.



 

Ngôi mộ này, kỳ thực không phải Bắc Lương Vương xây cho chính mình, mà là để tưởng nhớ những đứa con của ông. Chính xác hơn, đó là ngôi mộ được dựng lên để tưởng niệm vị hòa thượng tên Nhạc.

 

Những bức họa dài khắc trên tường đều được tạc từ đá quý thượng hạng, tinh xảo đến mức thể hiện rõ trình độ nghệ thuật cao nhất của thời ấy.

 

Bức thứ nhất kể một câu chuyện đơn giản: Bắc Lương Vương, nhiều năm không có con nối dõi, ngày đêm cầu khấn trời đất ban cho mình một người thừa kế để có thể trao lại toàn bộ vùng Tây Bắc trù phú, để đứa trẻ ấy sau này có thể trị vì thiên hạ.

 

Sau bao năm mong mỏi, cuối cùng một trong các phi tần của ông mang thai. Nhưng khi sinh nở, cảnh tượng khiến Bắc Lương Vương kinh hãi đến tột cùng —

đứa trẻ chào đời lại là một quái thai có bốn cánh tay.

 

Trong cơn thất vọng và sợ hãi, ông lập tức hạ lệnh ném đứa bé xuống giếng, dìm c.h.ế.t nó. Chúng tôi nhìn đến đây, ai nấy đều rùng mình, chỉ thấy dưới bức họa còn có hàng chữ nhỏ dày đặc khắc bằng thể lối lệ thư.

 

Lão Giang nhìn kỹ rồi nói:

 

“Chữ này nét vuông, dày mà sắc như d.a.o điển hình là kiểu chữ Bắc Lương.”

 

Rồi ông bắt đầu kể cho chúng tôi nghe bí mật ẩn sau những bức họa đó. Thì ra, đứa trẻ này không phải quái thai duy nhất.

 

Trước đó, nhiều phi tần khác của Bắc Lương Vương cũng lần lượt sinh ra những đứa bé có bốn tay tất cả đều là dị dạng.

 

Điều này khiến Bắc Lương Vương vô cùng khổ sở. Nhưng đáng sợ hơn là, từ đó về sau, mỗi khi đêm khuya, ông vừa chợp mắt liền mơ thấy vô số đứa trẻ mình từng g.i.ế.c c.h.ế.t toàn thân ướt đẫm nước, bốn cánh tay đung đưa, lặng lẽ bò đến bên giường của ông…

 

Miệng lũ trẻ còn không ngừng kêu: “Phụ thân, phụ thân...”

 

“Ngài vì sao lại ném con xuống giếng?”

 

“Dưới giếng lạnh quá, ướt quá, tối quá...”

 

“Phụ thân, đến đây đi... đến chơi với chúng con đi, hì hì hì hì...”

 

Từng câu như búa nện vào tim, khiến Lương Vương mỗi lần tỉnh giấc đều toát mồ hôi lạnh, từ đó mắc chứng mất ngủ trầm trọng.

 

Ngày qua tháng lại, tinh thần ông sa sút, gần như sụp đổ. Cho đến một hôm, bên ngoài thành Đôn Hoàng xuất hiện một vị hòa thượng đến từ Tây Vực, pháp danh là Lạc.

 

Lạc hòa thượng không màng lính canh ngăn cản, thẳng tiến vào hoàng cung, nhất quyết đòi gặp Lương Vương.

 

Điều kỳ lạ là thành Đôn Hoàng thủ vệ nghiêm ngặt, năm trăm cấm vệ quân giáp trụ sáng loáng, vậy mà vẫn để vị hòa thượng ấy đi vào như không có ai.

 

Lương Vương lấy làm lạ, nhưng tâm trạng lại đột nhiên tốt hơn, đồng ý gặp. Ông muốn xem vị hòa thượng này đến rốt cuộc là vì điều gì. Không ngờ, lời đầu tiên Lạc nói lại là:

 

“Xin Lương Vương dừng việc chinh phạt tứ phương, để bách tính được an cư lạc nghiệp.”

 

Lương Vương nghe xong thì bật cười giận dữ: “Ngươi, một hòa thượng, chẳng lẽ tu Phật tu đến hồ đồ rồi sao? Ngay cả khanh tướng của trẫm còn chẳng dám nói lời ấy, ngươi là ai mà dám?”

 

“Ngươi có biết thiên hạ hiện nay cường địch dọc ngang? Nếu ta không đánh, người khác sẽ đến đ.á.n.h ta. Đến khi đó, dân Bắc Lương chẳng phải thành dê trong miệng hổ, để người ta tùy ý xẻ thịt ư? Ngươi là gian tế nước khác phải không?”

 

Lạc hòa thượng chỉ chắp tay niệm một tiếng A Di Đà Phật, rồi nhẹ giọng kể lại những điều ông đã thấy trên đường đi: xác người chất núi, m.á.u chảy thành sông, dân chúng lang bạt, đói khát, nhà tan cửa nát vì chiến tranh triền miên.

 

Ông nói mình hiểu nỗi lo của Lương Vương, nhưng những kẻ đang chịu khổ đó chẳng phải cũng là dân Bắc Lương hay sao?

 

Nếu nhà vua có thể tạm gác binh đao, để dân hồi sức, nước hưng thịnh, thì nào còn ai dám xâm phạm biên giới nữa?

 

“Dân mạnh thì binh mạnh, binh mạnh thì nước mạnh. Chứ chẳng phải cứ lo rèn gươm giáo, bỏ mặc lê dân đói khát, rồi để thanh niên trai tráng c.h.ế.t hết nơi sa trường.”

 

Lời Lạc hòa thượng nói, Lương Vương nghe mà không thể phản bác. Thực ra ông cũng không ưa c.h.é.m g.i.ế.c, chỉ là thế cuộc bắt buộc. Cuối cùng, ông nói:

 

“Nếu ngươi khiến các nước khác không xâm phạm Tây Bắc, ta sẽ giải tán quân đội, cất đao gươm, đời đời hòa bình.”

 

Lạc hòa thượng mỉm cười: “Chuyện đó không khó. Ta thuyết phục được ngài, rồi sẽ đi thuyết phục những vị vương khác.”

 

Lương Vương nheo mắt, giọng khinh bạc:

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn -

 

“Ngươi thuyết phục ta bằng cách nào? Cớ sao dám chắc sẽ khiến ta nghe theo?”

Fl Bống Ngọc trên facebook/ tiktok để ủng hộ nhà dịch nha.
Cảm ơn mọi người rất nhiều ạ.❤️❤️❤️

 

Lạc hòa thượng chắp tay, ánh mắt hiền hòa, chỉ nói: “Ta có thể khiến ngài ngủ ngon mỗi đêm và sinh ra một hoàng tử khỏe mạnh.”

 

Lời ấy như sét đ.á.n.h giữa trời quang. Hai điều đó chính là khát vọng sâu nhất trong lòng Lương Vương!

 

Ông chẳng biết vị hòa thượng này từ đâu đến, càng không biết làm sao ông ta lại hiểu rõ tâm tư mình như vậy. Nhưng kể từ đêm thứ ba sau khi Lạc hòa thượng tụng kinh trong cung, Lương Vương thực sự có thể an giấc bình yên.

 

Trong mộng, những đứa trẻ từng bị ông ném xuống giếng lại hiện ra nhưng lần này, chúng mỉm cười.

 

“Giờ chúng con ấm rồi,” chúng nói, “chúng con sắp đến một nơi tên là Động Mạc Cao , đó là cực lạc...”

 

Ngày thứ tư, một kỵ binh phi ngựa tám trăm dặm từ Đôn Hoàng lao đi, truyền lệnh thu binh, giải chiến.

 

Cùng ngày, Lương Vương ban chiếu khắp thiên hạ tuyên bố quốc giáo là Phật giáo. Ông muốn dựng cho Lạc hòa thượng một ngôi chùa lớn nhất Bắc Lương, để người đời đời hương khói thờ phụng.

 

Nhưng Lạc chỉ khẽ lắc đầu, từ chối. Không bao lâu, ông rời Bắc Lương, dắt theo con ngựa gầy, tay cầm tích trượng chín vòng, vừa đi vừa niệm kinh. Trước khi đi, ông nói câu cuối:

 

“Ta còn phải đi khuyên các vị vương khác. Nếu ngài có lòng, hãy đến Động Mạc Cao tìm ta.”

 

Trong lời khắc cuối cùng, Lương Vương đã dùng tất cả những mỹ từ đẹp nhất để ca ngợi vị hòa thượng ấy.

 

Truyện kết thúc bằng cảnh Lạc hòa thượng như dùng thần thông, cảm hóa các chư vương, khiến họ cùng ký kết hòa ước, chung tay xây dựng nên Mạc Cao — nơi về sau trở thành kỳ tích của nhân loại.

 

Chúng tôi xem xong bốn bức phù điêu, trong lòng dâng lên ngàn nỗi cảm khái. Ngay cả Điêu gia cũng khẽ vuốt lên bức tường đá, lẩm bẩm:

 

“Thời Thập Lục Quốc là thời loạn nhất trong lịch sử, vậy mà Phật pháp lại hưng thịnh nhất. Trước kia ta chẳng hiểu vì sao, giờ thì hiểu rồi.”

 

Lão Giang gật đầu, nói tiếp: “Động Mạc Cao không chỉ là nghệ thuật phương Đông, mà còn là ước vọng muôn đời của con người, ước vọng về hòa bình.”

 

“Phần cuối bản khắc có viết: sau khi Lạc hòa thượng viên tịch, chư vương xây tháp Phật để an trí xá lợi thất sắc lưu ly của ông.

 

Bốn nước gần nhất sa mạc, ở bốn phương Đông – Tây – Nam – Bắc, đều lập mộ phụ để canh giữ xá lợi.”

 

“Và nơi này chính là một trong bốn mộ ấy.”

 

Tôi nhìn hai ngọn núi vàng bạc chất đầy bên cạnh, hỏi lão Giang có nên chọn ít mang về không.

 

Ông khoát tay: “Những thứ đó không cần. Dù có lấy cũng chẳng đem ra được.

Hãy để lại cho hậu thế, cho những nhà khảo cổ sau này.”

 

“Thứ ta cần mang về chỉ có quốc bảo thật sự.”

 

Sau khi chụp lại vài tấm ảnh bằng máy gián điệp, chúng tôi tiến về chính thất. Giữa phòng phụ táng và chính mộ là một cánh cửa sơn đỏ cao lớn, đính đầy đinh tròn mạ vàng.

 

Ngay cả ổ khóa đồng trên đó cũng dát vàng. Nhưng khóa đồng không làm khó được chúng tôi. Theo hiệu lệnh của lão Giang, tôi chỉ mượn một cây kim bạc, khẽ chọc một cái, ổ khóa liền bật mở.

 

Cánh cửa nặng nề từ từ mở ra. Một luồng hơi lạnh từ trong tràn ra, như hơi thở của hàng nghìn năm tăm tối đang chờ đợi được đ.á.n.h thức...

 

Nếu nói những bức bích họa phía trước đã đủ khiến chúng tôi mở rộng tầm mắt, thì thế giới sau cánh cửa này thực sự khiến ai nấy đều kinh hãi đến nghẹn lời.

 

Chính thất phía sau tuy nhỏ hơn phòng phụ táng, nhưng mái vòm của nó lại được khảm đầy đá Nguyệt Quang loại đá có thể phát sáng trong bóng tối. Ánh sáng trắng xanh tỏa ra, phản chiếu khắp nơi, tựa như cả dải Ngân Hà đang lấp lánh trong lòng một ngôi mộ khép kín!

 

Dưới ánh sáng ấy, giữa gian phòng nổi bật một bệ tròn, trên đó đặt một pho tượng đất sét.

 

Pho tượng vô cùng kỳ lạ, là hình một đôi nam nữ song sinh, cơ thể liền làm một. Bên trái là người đàn ông, bên phải là người phụ nữ. Người phụ nữ uốn người trong tư thế vũ đạo tuyệt đẹp, còn người đàn ông thì ngẩng cổ lên như đang cất tiếng hát.

 

“Đây là…” Tôi thở dốc, có thể cảm nhận rõ rệt những pho tượng đất khác trong ba lô cũng đang khẽ rung lên, dường như cộng hưởng với bức tượng trước mặt.

 

Ánh mắt Lão Giang đột nhiên trở nên sắc bén, ông trầm giọng nói ra ba chữ: “Cẩn-na-la!”