Giữa thế giới thay đổi không ngừng, Chợ Lớn ở Sài Gòn lại chìm trong ký ức xưa cũ, hoang tàn.
Món xào ở phố người Hoa mang theo hương vị Trung Quốc biến tấu, tiếng Quảng Đông pha trộn âm điệu Việt Nam tràn ngập phố lớn, hẻm nhỏ nơi này.
Một năm rưỡi về trước, cả nhà Đông Văn Li chuyển đến đây.
Nói là cả nhà, thật ra chỉ có cô và ba Đông Cốc Châu, ngoài ra còn có một con chó mà cô nhìn thấy trong vũng bùn lúc xuống tàu, lúc đó nó đang hấp hối.
Hai cha con đến ở nhờ nhà một người cô đang làm ăn ở Sài Gòn, sống rất sâu trong một con hẻm ở phố người Hoa tại khu Chợ Lớn, nơi đó người ta dùng quần áo rách làm rèm.
Cô của Đông Văn Li định cư ở Sài Gòn, cho thuê một mảnh ruộng để hai cha con làm ăn kiếm sống, nhưng nghề chính của Đông Cốc Châu là chạy xe ôm.
Sau khi gặp tai nạn xe, chân của Đông Cốc Châu không thể hồi phục hoàn toàn.
Ngày nọ là ngày hiếm hoi ông uống rượu, mặt đỏ bừng, nói với cô: “A Li, ba biết một nơi có thể làm ăn rất tốt, con có muốn đi cùng ba không?”
Sau đó Đông Văn Li mới biết ông nói đến Sài Gòn.
Đứng trên đường phố Sài Gòn, đâu đâu cũng thấy đủ loại xe máy vội vàng tới lui giữa màn bụi, túi lớn túi nhỏ chất cao bằng nửa người.
Nhưng chạy xe ôm ở Sài Gòn đâu có dễ dàng đến vậy.
Bên ngoài, trời sụp tối, ván gỗ bên cạnh kêu cọt kẹt, sát vách có người trở về, sau đó có mùi thức ăn, tiếng người nhộn nhịp.
Nơi này giống Trung Quốc, nhưng cũng không giống Trung Quốc.
Đông Văn Li đứng lên ghế, lấy một vắt mì từ trong tủ, vặn ga.
Đợi nước sôi, bỏ vắt mì vào, dùng đũa đảo lên, lại mở cửa tủ, lấy một ít măng khô, vậy là hoàn thành các công đoạn nấu một tô mì, cứ ngồi đó đợi mì chín là được.
Chú nhà bên đi chợ mua cá về, lại có tiếng chảo chiên xèo xèo.
Đông Văn Li nuốt nước bọt, mở nắp nồi, cho thức ăn vào tô, thêm gia vị vào, ăn cho qua bữa.
Lai Phúc vẫy đuôi, ngoan ngoãn ngồi một bên.
Cô dừng đũa, vươn tay cầm tô của nó, chia cho nó nửa tô.
Cô đặt đũa xuống, xem như giải quyết xong bữa tối, sau đó rửa chén, ngồi trước cửa đợi.
Lai Phúc cũng ngồi trước cửa, hai tai dựng lên, chờ đợi cùng cô.
Mặt trời ban ngày rực rỡ chói mắt, bây giờ cũng tàn lụi, chân trời chuyển từ đỏ cam sang đỏ thẫm, cuối cùng, giống như không đợi được nữa, lại hóa thành đen kịt.
Đông Văn Li quay đầu nhìn hoa hồng đã cắt, đang cắm trong thùng nước, chúng đứng trong thùng nước, vẫn tươi tắn như thường.
Sau khi tiếng ho khan vang lên, con đường bên ngoài như được mở ra, tiếng chào hỏi phát ra liên tục, cả con đường trở nên nhộn nhịp, người xa lạ cũng không còn khoảng cách, ngay cả Lai Phúc buồn bã cả buổi chiều cũng tỉnh táo lại, phấn khích vẫy đuôi.
Đông Văn Li đứng dậy, biết ba đã về.
Vậy là cô đón ông vào, chưa nhìn thấy người đã thấy một chai nước to đùng, dán nhãn Coca-Cola giả.
Đó là giải pháp mà Đông Cốc Châu nghĩ ra, lúc mới đến đây, ông không biết nói giọng địa phương, cũng không quen thuộc với khu vực này, không thể cạnh tranh cùng người bản địa, vậy là ông rút ngắn thời nghỉ trưa và ăn cơm, treo chai nước lớn trên yên sau của xe, nhai hai chiếc bánh mì khô khốc và uống nước giữa khói bụi mù mịt.
Chuyện ăn uống trong ngày được giải quyết như vậy.
Nửa phút sau, cái bóng của Đông Cốc Châu nghiêng nghiêng trong căn nhà nhỏ của hai cha con.
“Ba.” Đông Văn Li đi về phía ông, cầm lấy chai nước trên tay ông.
“Để ba tự vào, toàn mồ hôi, người ba hôi lắm.” Đông Cốc Châu đặt chai nước trên tay xuống, xoay người hỏi A Li, “Ăn cơm chưa, A Li?”
Đông Văn Li gật đầu: “Ba, hôm nay ba làm ăn có tốt không?”
“Cũng vậy thôi, trời nóng, ít người ra ngoài.” Đông Cốc Châu tháo chiếc mũ rơm, quạt quạt lên gương mặt đỏ bừng, duỗi lưng, nhìn thấy nửa vắt mì mà Đông Văn Li đã ăn, ông bật lửa, nấu phần còn lại.
Nước sôi, khói bốc lên, hai cha con im lặng nhìn nước trong nồi.
“A Li, sau này con sang nhà cô ăn cơm tối đi, đừng chờ ba.”
“Dạ, con biết rồi.” Đông Văn Li ngồi trước cửa, gật đầu.
Đông Cốc Châu cầm đôi đũa đảo mì trong nồi: “Nếu con không muốn đi thì ra chợ mua một chút rau củ tươi, đang tuổi lớn, làm sao có thể ăn mì mãi được, đừng nghĩ mình nói tiếng Việt không tốt, nói nhiều thì tự nhiên sẽ thành thạo thôi.”
“Dạ, con biết rồi.” Đông Văn Li vẫn ngoan ngoãn gật đầu, sau đó đứng dậy trước cửa, bóng dáng gầy gò của cô che phủ ánh đèn phía trên thùng hoa hồng, chỉ chừa lại một cái bóng bao trùm cánh hoa.
Cô chọn mấy bông hoa đẹp nhất, đặt vào giỏ trúc, đứng dậy: “Ba, con đi đây.”
Đông Cốc Châu còn chưa nuốt hết: “Cẩn thận đấy.”
“Dạ, con biết, con đi cùng Nguyễn Yên.”
Lai Phúc đang quanh quẩn bên Đông Cốc Châu, thấy vậy cũng đuổi theo Đông Văn Li.
“Về sớm nhé, sáng mai còn đi chùa Thiên Tích.”
“Đi chùa Thiên Tích làm gì ạ?”
Đông Cốc Châu nói: “Thử vận may.”
Vận may gì chứ?
Đông Cốc Châu ngây người một lát, mới giải thích: “Ngày mai chùa Thiên Tích có nghi thức dâng hương lạy Phật, khách hành hương còn đông hơn cá sông, còn có người giàu ném tiền mua hương, chúng ta cũng đến góp vui.”
Đông Văn Li im lặng một lát, sau đó gật đầu, bước ra cửa.
*
Ánh đèn nhấp nháy trong đêm, những khe gạch ngói lát trên mặt đất tràn ngập cỏ dại héo úa và tàn thuốc bị giẫm nát.
Nguyễn Yên có sống mũi cao, mắt sâu, trong thời đại trào lưu đến chậm, cô ấy mặc quần ống loe có đai đeo, quấn khăn choàng lụa màu đen quanh cổ, cắt tóc ngắn thời thượng, ngậm điếu thuốc nhỏ dài trong miệng, nhả khói vào người đi đường, “Mẹ nó.”
Cô ấy là người Sài Gòn lai Âu, nói tiếng Quảng Đông nghe vừa buồn cười vừa căm phẫn, Đông Văn Li vội vàng bước lên che miệng cô ấy, “Yên Yên, nếu họ cũng là người Quảng Đông thì xong đời, họ hiểu đấy.”
“Hiểu thì hiểu đi, mẹ nó một đám lưu manh, bán hoa thì sao, có phải là một đám chó đánh dấu lãnh thổ không, sao không thấy chúng tè ra đi, có gan thì giơ chân lên, đi đến trước mắt bà đây mà tè, chị sẽ xoay chân đá vào háng bọn chúng!”
Xong rồi còn sợ Đông Văn Li không hiểu cô ấy nói gì, vậy là cô ấy minh họa bằng hành động.
Cách ăn mặc của cô ấy không hài hòa với điệu bộ buồn cười đó, Đông Văn Li cười khanh khách.
“Em còn cười nữa, A Li, em cẩn thận thì hơn, mấy người này rất tàn ác, tối nay họ lấy của em bao nhiêu tiền?”
“Không lấy được, em vừa nhìn thấy họ thì quay đầu vòng lại, bọn họ không bắt được em.”
“Em nên đổi chỗ khác đi, nơi này quá hỗn loạn, không an toàn chút nào, chỉ cần nói đến đám chó hoang kia thôi, nhỡ đâu bọn họ nhận ra em, cả giỏ hoa của em cũng không đủ bù tiền.”
“Nhưng đâu còn nơi nào đông người như ở đây.”
Đông Văn Li dứt lời, Nguyễn Yên nhìn về phía trước, cuối con đường dài.
Phụ nữ đ ẫy đà lôi kéo khách qua đường, đàn ông tụ tập đánh bài, uống rượu, một người say rượu suýt ngã xuống sông chết đuối, là một người đàn ông trung niên được một già một trẻ đỡ.
Cô ấy nheo mắt nhìn người đến người đi, hút một hơi thuốc lá, nói khẽ: “Nếu có một ngày người của tiên sinh đến, xem bọn họ còn có gan chiếm đất xưng vua nữa không.”
“Tiên sinh là ai?”
“Em không biết à?”
Đông Văn Li lắc đầu.
“Chị còn tưởng người Trung Quốc ở Chợ Lớn đều biết chứ.” Nguyễn Yên cười, véo nhẹ mặt của A Li, “Đến chị còn biết.”
“Người đó có nổi tiếng không?” Đông Văn Li hỏi, “Chị từng gặp chưa?”
“Sao chị có thể gặp được?” Nguyễn Yên phủi phủi tro thuốc lá trên tay, “Người như ông ấy nhất định phải sống ở nơi không một con ruồi nào bay vào được như Dinh thự số 1, người bình thường làm sao có thể nhìn thấy ông ấy. Nhưng ngày mai có lễ dâng hương ở chùa Thiên Tích, ông ấy là người thắp hương quan trọng nhất, em có đi không, em mà đi, không chừng còn có cơ hội gặp ông ấy.”
Đông Văn Li nghĩ ngợi, nói: “Ba bảo em đi.”
“Vậy em phải để ý một chút, nghe nói có lần khu phố người Hoa ở Chợ Lớn xảy ra giẫm đạp.” Nguyễn Yên nhướng mày, cầm tay cô ấy, “Nếu có gặp thì nói cho chị biết tiên sinh trông thế nào, có giống trong phim Hong Kong, chống gậy, đội mũ, đeo nhẫn ngọc phỉ thúy to đùng trên tay không.”
Nguyễn Yên nói ra hình tượng trong đầu, Đông Văn Li thật thà trả lời: “Nhiều người như vậy, có khi em không nhìn thấy được.”
“Chị thật sự mong đợi em thấy được à? Không thấy thì cứ bịa đặt ra một hình tượng để lừa chị đi, để chị còn có một chút lý tưởng về nhân gian.”
Nguyễn Yên nói xong thì duỗi người, trong khóe mắt còn nhìn thấy Lai Phúc nằm bên chân họ, nghĩ đến vừa rồi con chó bị đám lưu manh đuổi, cô ấy đưa chân chọc chọc nó: “Đồ vô dụng, sau này có người bắt nạt chủ của mày, mày cứ cắn chết chúng là được, đứng đó gào to như vậy thì làm được gì chứ, chậc ——”
Cô ấy quay đầu hỏi Đông Văn Li, “A Li, con chó của em không cắn người được đúng không, chó không cắn người nên sống ở Dinh thự số 1 mới đúng.”
Đây là lần thứ hai họ nhắc đến Dinh thự số 1 khi trò chuyện, Đông Văn Li biết Nguyễn Yên đang nói đến khu nhà giàu tựa như thiên đường, nơi đó, chó không phải xin thức ăn kiếm sống như Lai Phúc, chúng được nữ chủ nhân dịu dàng ôm trong lòng, có lông xù, bản chất hưởng thụ sự nuông chiều, không cần phải sủa, không cần cắn người, cũng không cần giữ nhà.
Đông Văn Li ngồi xổm xuống, che tai Lai Phúc lại, “Yên Yên, chị đừng nói vậy, Lai Phúc còn nhỏ, hiểu được sẽ buồn đấy.”
“Nó hiểu tiếng Việt hay hiểu tiếng Trung Quốc pha Quảng Đông của em?” Nguyễn Yên ngậm điếu thuốc trong miệng, nói, còn xen lẫn tiếng cười.
Có lúc Đông Văn Li nói chuyện với Nguyễn Yên bằng tiếng phổ thông, có lúc lại nói tiếng Quảng Đông, Nguyễn Yên đều hiểu hết, cô ấy bắt đầu chơi nhạc, theo dõi dòng nhạc Rock n’ Roll từ rất sớm, có thời gian còn điên cuồng mua đ ĩa nhạc Beyond.
Có lẽ chỉ có Nguyễn Yên mới hiểu cô, cho nên cô ấy trở thành bạn thân nhất của cô ở Sài Gòn.
Nguyễn Yên chủ yếu nói tiếng Việt, thỉnh thoảng cũng có thể nói mấy từ tiếng Quảng Đông.
Đối với người ngoài, một cô gái Sài Gòn mang dáng vẻ Âu Mỹ, nói thành thạo tiếng địa phương với một cô gái đến từ nơi khác, mà cô gái đó còn phải chật vật rất lâu mới bập bẹ nói được tiếng địa phương pha trộn với tiếng phổ thông, nhìn thế nào cũng thấy rất kỳ lạ.
Kỳ lạ hơn là, hai người nói những chuyện khác nhau, như vậy cũng không ảnh hưởng đến việc giao tiếp của họ.
Đông Văn Li thấy trong giỏ còn dư rất nhiều hoa hồng, chỉ biết thở dài.
“Bán cau đi.” Nguyễn Yên nói.
“Bán được không?” Cô nhìn Nguyễn Yên.
“Bán được như thuốc lá vậy.” Nguyễn Yên nhướng mày, hút một hơi thuốc lá trên tay, “Dễ hơn bán hoa.”
“Hoa bán không được, có thể là vì em nói tiếng Việt không tốt.” Đông Văn Li nói.
Cô có thể đọc hiểu tiếng Việt, cũng có thể viết rất nhuần nhuyễn, thậm chí đi học còn có thể đứng đầu, nhưng phát âm vẫn cứ là lạ.
“Ngốc.” Nguyễn Yên nhận định, nói tiếng Việt, “Hoa sẽ héo, sẽ chết, so với việc vượt qua sự héo tàn và cái chết để có được cái đẹp, chìm đắm và nghiện ngập mới là chuyện làm ăn sinh lời.”
Đông Văn Li quay đầu, hỏi: “Yên Yên, chị nói lời này lạ lẫm quá, em không hiểu.”
“Đừng giả vờ.” Nguyễn Yên đưa tay chọc chọc lên trán của Đông Văn Li, “Em thông minh như sinh viên đại học mà còn giả vờ trước mặt chị.”
Đông Văn Li cười, hai lúm đồng tiền hiện ra.
Nguyễn Yên nghĩ lúc cô ấy cười lên, cảm giác lạnh lùng, xa cách cũng tan biến, sau đó cảm giác khó tả ùa đến.
Cô gầy gò, mỏng manh như cọng giá, đeo chiếc giỏ lớn xuyên qua dòng người, làm người ta tưởng cô mới mười lăm, mười sáu tuổi.
Nhưng trong câu chuyện của họ, họ vừa bước vào tuổi mười tám.
Đối với họ, tốt nghiệp cấp ba là đủ rồi.
Nhưng A Li xứng đáng đi xa hơn, đến một nơi tốt hơn.
“Bán cau đi.” Nguyễn Yên lặp lại, tìm ánh mắt của Đông Văn Li giữa ánh đèn mờ mịt, “Không phải em nói là muốn vào đại học à, vậy phải nỗ lực tiết kiệm tiền.”
Đông Văn Li đối diện với ánh mắt thâm sâu của Nguyễn Yên, do dự một lát, sau đó gật đầu.
“Sáng sớm em sẽ ra chợ lấy hàng.”
“Được rồi, em lấy trước một cân đi, loại cau xanh.”
“Xanh à?”
Nguyễn Yên lười biếng duỗi người, giống như chuẩn bị rời đi, “Người trẻ thích ăn món có màu xanh đấy.”
“Yên Yên, nghe nói ăn quá nhiều cau cũng không tốt, chị đừng ăn nữa.” Đông Văn Li ngăn cản cô ấy.
“Chi bằng em khuyên chị cai thuốc.” Cô ấy cười nịnh nọt, gõ gõ đầu của cô, “Mau dẫn chó ngốc của em về đi.”
Nói xong lại biến mất trong màn đêm.
Đông Văn Li ngồi xổm xuống, xoa xoa Lai Phúc đang tủi thân, “Chị ấy lừa mày đấy, mạnh miệng yếu lòng, chị ấy yêu mày, Lai Phúc.”
Sau đó đứng dậy, liếc nhìn hoa hồng trong giỏ trúc, cầm giỏ, đeo lên lưng.
*
Sáng hôm sau, mặt trời chưa lên, Đông Văn Li đã ra ngoài.
Cau rẻ tiền và cau chất lượng trong chợ đang chờ người đến lấy, mặc dù cô đến đó trước khi mặt trời mọc, nhưng cũng không còn bao nhiêu cau tốt để chọn.
Cô không có nhiều thời gian, vội vội vàng vàng trở về nhà, đụng phải Đông Cốc Châu chuẩn bị ra ngoài.
Rõ ràng hôm nay ông có chải chuốt, mặc bộ quần áo Tôn Trung Sơn lịch sự nhất, cài nút trên cùng lại, tóc được chải gọn gàng, trông giống hệt dáng vẻ của ông hồi còn trẻ mà trước đây cô đã nhìn thấy trong ảnh.
Trước khi đi, Đông Cốc Châu nhét một bao lì xì vào túi, Đông Văn Li ước lượng độ dày.
Không ít.
Cô muốn hỏi, nhưng Đông Cốc Châu lại không nói gì, chỉ cầm mũ, đưa cô ra ngoài.
Đông Văn Li nhìn giỏ cau, nghĩ đến lời hứa với Nguyễn Yên, cũng quay lại cầm theo một ít cau.
*
Mới sáng sớm, chùa Thiên Tích đã đông đúc, đòn gánh, rổ đồ mà mọi người mang theo, bây giờ được đặt trước cổng chùa, Đông Cốc Châu bảo Đông Văn Li đợi ông dưới tán cây ngoài cổng chùa.
Cô ngẩng đầu nhìn lên, thấy nhang vòng được cắm trước cổng chùa, nhang cháy làm người ta chóng mặt.
Cô quay đầu tới lui, cố tìm điểm bắt đầu và điểm kết thúc của nhang vòng, nhưng con mắt ngạ quỷ trong chùa nứt toác, mặt xanh nanh vàng, thần Phật, ác quỷ, thật sự khó phân biệt.
Vậy là cô chỉ có thể cúi đầu, cầm giỏ cau, nhìn Đông Cốc Châu chật vật chen chúc vào biển người, xô đẩy đám đông chật kín trước mặt.
Xung quanh toàn người to khỏe, ông chỉ có thể dựa dẫm vào cái chân chịu lực để chen chúc vào biển người giống như cá mòi đóng hộp.
Cô nhìn qua khoảng trống giữa dòng người, thấy có người phun nước bọt, vẫy tay mất kiên nhẫn, sau đó nhìn thấy Đông Cốc Châu cầm lấy bao lì xì đã chuẩn bị trước, gương mặt tươi cười, lại nhìn thấy ông khinh thường chậc lưỡi, đưa tay viết mấy chữ to đùng lên quyển sổ trước mặt, rốt cuộc vẻ mặt căng thẳng của Đông Cốc Châu mới thả lỏng.
Ông vẫy tay với Đông Văn Li.
“Ba.” Đông Văn Li chạy về phía trước.
Ông không giấu được niềm vui trên mặt: “A Li, ba được lên thuyền rồi.”
“Dạ?”
“Ba được lên thuyền rồi! Đây là tiền lương cho một lần lên thuyền!” Đông Cốc Châu ra hiệu, “Tiền đây, sau này chúng ta có tiền cho A Li nhà mình đi học rồi!”
Đông Văn Li ngây ngốc đứng đó, cô nắm chặt dây đeo giỏ cau trong tay.
“Đi, chúng ta tạ ơn thần Phật, tạ ơn tiên sinh.”
Tiên sinh?
Đây là lần thứ hai cô nghe cách xưng hô này.
Rốt cuộc đó là người như thế nào?
Là giống như thần Phật, là chúa tể thống trị vận mệnh và đáp ứng mọi khát khao của con người sao?
Người xung quanh chen chúc đi lên, tràn ngập khói hương, cô đi theo dòng người vào sảnh đường, không nhìn rõ đôi mắt từ bi của thần Phật, không nhìn rõ đôi mắt bi thương của ngạ quỷ.
*
Tiếng Phạn vang lên, tín đồ thành kính quỳ lạy.
Ngoài sảnh đường, vô số người hèn mọn và thành kính như cô đang xếp hàng.
Như kiến hôi quỳ dưới chân thần Phật.
Đông Văn Li lặng lẽ ngước nhìn, thấy những người này nhắm mắt.
Ba nói, họ đang chờ ban ân, ân trời.
Chờ người bên trong dâng hương xong, trụ trì sẽ đi ra, tặng thức ăn và ban ân.
Cô nhìn vào đại điện, chúng sinh muôn màu dưới chân thần Phật, giữa khói hương quanh quẩn, cô nhìn thấy một người đứng trong điện, vóc dáng cao lớn, không nhiễm bụi trần.
Chuông chùa ong ong bên tai, cô nhìn ra thần khí.
Ánh mắt đang vương vấn nơi anh, bị Đông Cốc Châu kéo trở lại: “A Li, đó là tiên sinh, không được vô lễ.”
Trong lòng cô ưu tư, hóa ra đó là tiên sinh.
Đông Văn Li chưa kịp hoàn hồn, một tiếng động dài vang lên, nghi lễ kết thúc, những con người vốn dĩ thành kính, yên tĩnh lại vội vã lao vào, như bị ma quỷ dẫn đường.
“Phát tiền hương hỏa! Phát tiền hương hỏa!”
Mấy nhà sư cầm ra mấy chiếc hộp trông rất nặng nề, bên trong đều là tiền.
Bây giờ Đông Văn Li đã hiểu tại sao mọi người lại lạy Phật thành kính như vậy, có thể chuyên tâm chờ đợi như vậy.
Người sau lưng điên cuồng chen lên, Đông Văn Li thấp bé, không bao lâu đã bị chìm trong biển người, cô nghĩ đến sự cố giẫm đạp mà Nguyễn Yên đã nhắc đến, muốn quay lại tìm Đông Cốc Châu, lại không thấy bóng dáng ông đâu.
Vậy là cô phải tháo giỏ trúc trên lưng xuống, nhưng không cầm chắc, giỏ rơi xuống sàn nhà, nửa số cau lăn ra.
Mấy trái cau xanh bị người ta giẫm nát, nước cau lẫn vào đám đông chen chúc, Đông Văn Li khàn giọng bảo đám đông nhường đường một chút, muốn ngồi xuống nhặt cau.
Nhưng điều bất lực chính là, trái cây vừa được hái đêm qua, trải qua mấy tiếng đồng hồ xóc nảy, được đặt vào giỏ, đi đến chợ đầu mối trong niềm hy vọng ngập tràn, giờ phút này lại giống như trái tim quái vật, vẫn còn đập thình thịch, đã rơi xuống nền đất, nó muốn kêu cứu theo bản năng sinh tồn, nhưng bị giẫm đạp, dòng máu chảy ra.
Cô điên cuồng tìm cách giải cứu, đuổi theo trái cau đang lăn đến chân của người đi đến từ phía đối diện.
Thêm nửa bước chân nữa, có lẽ lời nguyền xanh lá của quái vật sẽ dây vào đế giày của anh, anh dừng bước.
Bên cạnh giày da màu đen xuất hiện một bàn tay thon dài trắng trẻo, bàn tay kia dễ dàng nhặt sinh mệnh yếu ớt lên. Chớp mắt một cái, màu xanh vàng hỗn loạn xung quanh dường như cũng ngừng loang lổ.
Anh nhẹ nhàng nhặt trái cau, đặt vào lư hương đang bốc khói bên cạnh, sau đó, giữa cơn sụp đổ, anh và cô chỉ vội vàng lướt qua nhau giữa biển người.
Rốt cuộc cô cũng nhìn rõ mặt của anh, biết miêu tả thế nào đây, tự dưng cô nghĩ đến ngọn đèn đơn độc sáng mãi giữa gió mưa, không bao giờ tắt, cũng chưa bao giờ dao động.