Ta chưa kịp nghe rõ, chỉ đành gật đầu, xem như đáp lại câu hỏi của hắn.
May mà hắn cũng không truy cứu thêm.
Không lâu sau, các trưởng lão đến mời tiên tôn đi nghị sự.
Ta rảnh rỗi không việc gì, liền dắt Tiểu Lang đi dạo quanh Vạn Kiếm Tông.
Tiểu Lang tâm tính trẻ con, cái gì cũng thấy mới mẻ.
Mỗi bước chân đều ngập tràn tò mò.
Lúc nó đang chơi đùa thích thú nhất, sư phụ truyền âm gọi ta.
Ta đưa lệnh bài của mình cho Tiểu Lang, dặn nó cứ tự do đi dạo, chỉ có một điều duy nhất — tuyệt đối không được bước vào cấm địa.
Khi nào chơi mệt thì về nghỉ ở chỗ của ta, trên đỉnh Tử Trúc.
Tiểu Lang hớn hở đồng ý.
Sau mấy năm không gặp, ta và sư phụ chỉ chào hỏi sơ qua vài câu, rồi ông liền cùng ta tỉ thí vài chiêu như thường lệ.
Sau đó, ông khá hài lòng, gật đầu bảo:
“Tiến bộ hơn ba năm trước không ít.”
Sư phụ vuốt râu, giọng ôn tồn:
“Xem ra, tiểu lang kia quả thật hợp ý con.”
Ta nào dám nói rằng từ sau khi rời khỏi Tạ Ẩn Chu, tu vi ta vẫn không có mấy khởi sắc.
Chỉ đành cười gượng:
“Đa tạ sư phụ đã khuyên đồ nhi chuyển sang tu Hữu Tình đạo.
Nếu không, e rằng con vẫn còn đang cố chấp trên con đường Vô Tình.”
Sư phụ khẽ thở dài:
“Con xưng ta là sư phụ, nhưng thật ra ta chẳng dạy con được bao nhiêu.
Mười mấy năm trước, ta nhặt được con dưới núi.
Khi ấy, con đã có một thân bản lĩnh, nhưng không nhớ được gì, chỉ mang theo sát ý nặng nề, một lòng bước vào Vô Tình đạo.
Giờ con xuống núi du hành ba năm, oán khí trên người đã tiêu bớt phần nào.
Như vậy, ta cũng yên tâm rồi.”
Ta mỉm cười:
“Ngài kiên nhẫn dạy dỗ, xứng đáng với hai chữ ‘sư phụ’.”
Nói rồi, ta lấy từ túi pháp bảo ra những vật phẩm quý hiếm mình thu nhặt được trong lúc chu du tứ hải.
Chẳng mấy chốc, bàn đá trước mặt đã đầy ắp lễ vật — nào là rượu Hầu Nhi của Vạn Thú Cốc, ngọc trai Minh Châu từ Đông Hải, rồi cả Quả Duyên Niên ở Vân Mộng Trạch...